'cookieChoices = {};'
Showing posts with label Ngôn ngữ của Hoa. Show all posts
Showing posts with label Ngôn ngữ của Hoa. Show all posts

Thursday, September 4, 2014

Nghệ thuật cắm hoa Nhật Bản

Giống như những loại hình nghệ thuật khác, Ikebana thể hiện sự sáng tạo trong những quy tắc cắm hoa nhất định. Cành cây, lá, cỏ, hoa tươi thường được sử dụng và trung tâm vẻ đẹp của bình hoa là sự kết hợp hài hòa giữa màu sắc với hình dạng tự nhiên, ý nghĩa của bình hoa mà người cắm muốn gửi gắm được ẩn dấu một cách khéo léo.  Theo nghĩa văn học, Ikebana là "hoa sống", là nghệ thuật diễn tả những tình cảm khi thưởng thức thiên nhiên, một nền nghệ thuật tái tạo lại không gian của cảnh vật với một cành cây, một ngọn cỏ, bộc lộ những sắc thái tình cảm qua các cung bậc màu sắc của các loài hoa.
 
Ikebana cũng được xem là một nghệ thuật giống như hội họa hay điêu khắc với một lịch sử lâu đời đã được ghi chép lại. Ở Nhật Bản, các bình cắm hoa cũng được sử dụng như đồ trang trí giống như các bức tranh hay các tác phẩm nghệ thuật khác.

Lịch sử IKEBANA
 
ikebana-nghe-thuat-cam-hoa-nhat-ban
 
Ikebana còn gọi là kado hay Hoa đạo, có nguồn gốc từ nghi lễ dâng hoa cho Đức Phật, rồi phát triển thành một hình thức nghệ thuật đặc biệt từ thế kỷ 15, với nhiều phong cách và trường phái. Nghi thức dâng hoa trong Phật giáo (kuge) được Ono no Imokodu du nhập từ Trung Hoa vào Nhật Bản vào đầu thế kỷ thứ 7, sau đó trường phái cắm hoa Ikenobo khẳng định mình là con cháu của ông. Ngoài dâng cúng trong tôn giáo ra, không có ghi chép nào về một hình thức cắm hoa có hệ thống ở Nhật Bản trước cuối thế kỷ 15. Giữa thế kỷ 15, cùng với sự nổi lên của những phong cách cổ điển đầu tiên, Ikebana trở thành một môn nghệ thuật đặc trưng của tôn giáo, cho dù nó vẫn tiếp tục giữ lại được tính tượng trưng và ý nghĩa triết học.
Đến thế kỷ 16, 17 mặc dù trường phái Ikenobo vẫn thịnh hành nhưng nhiều trường phái rikka ( một cách cắm hoa công phu tìm cách phản ánh sự hùng vĩ của thiên nhiên ) đã ra đời và phát triển mạnh dưới sự bảo trợ của quý tộc.
 
ikebana-nghe-thuat-cam-hoa-nhat-ban

Cuối thế kỷ 16, một hình thức cắm hoa mới gọi là nageire bắt đầu được sử dụng trong trà đạo với khuynh hướng thật mộc mạc thanh tao. Cuối thế kỷ 17 hình thức cắm hoa của giới quý tộc và thầy tu thay đổi hẳn, xuất hiện trường phái cắm hoa shoka hay seika ( hoa sống ). Shoka kết hợp chân giá trị hùng vĩ của rikka với tính mộc mạc, đơn sơ của nageire, cuối thế kỷ 18 trở thành phong cách phổ biến nhất.

Sau thời kỳ phục hưng Minh trị 1868 , nghệ thuật Nhật Bản truyền thống trong đó có Ikebana nhất thời bị sự nhiệt tâm ủng hộ văn hóa phương Tây lấn át. Tuy nhiên nó đã hồi sinh mạnh mẽ vào cuối thế kỷ 19 và tiếp tục phát triển mạnh cho đến nay, nhưng nhiều trường phái cắm hoa mới tiếp tục xuất hiện. Ngày nay, có khoảng 3000 trường phái ikebana ở Nhật Bản, với khoảng 15 đến 20 triệu người theo học, hầu hết là phụ nữ tuổi từ 18 đến 26. Phong cách phổ biến nhất là Ikenobo, Ohara và Sogetsu, mỗi phong cách thu hút khoảng 3 triệu người theo học. Hiện nay vẫn còn phong cách cắm hoa rikka và shoka, cũng như nhiều phong cách cắm hoa khác hiện đại hơn.
 
IKEBANA và tình yêu thiên nhiên của người Nhật
 
ikebana-nghe-thuat-cam-hoa-nhat-ban
 
Sự phát triển lên đến đỉnh cao của nghệ thuật cắm hoa ở Nhật có thể được lý giải bởi tình yêu của người Nhật đối với thiên nhiên. Vẻ đẹp của thiên nhiên được mọi người ở khắp mọi nơi yêu thích nhưng ở Nhật, người ta thật sự nâng niu, và hiểu rõ giá trị của thiên nhiên, và tình yêu thiên nhiên của ngươi Nhật lớn đến nỗi gần như trở thành một tôn giáo. Người Nhật luôn cảm thấy có một mối liên hệ, gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên xung quanh, và ngay cả trong đời sống hiện đại, sự đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, đường nhựa, bê tông trải dài khắp nơi thì họ vẫn mong muốn tạo một chút không gian thiên nhiên ở gần bên. Du khách nước ngoài khi đến Tokyo thường hay bất ngờ khi thấy những bình hoa với một hoặc vài bông hoa được treo trên xe, ở các cạnh của kính chắn gió bởi những người lái taxi. Thật khó mà tìm thấy ở Nhật một ngôi nhà nào mà quanh năm không được tô điểm bởi sắc hoa.
 
Về cơ bản thì Ikebana không đơn thuần hướng đến việc đưa một phần thiên nhiên vào trong ngôi nhà, mà xa hơn là muốn cho thấy cả một thế giới nhiên bao trùm, bằng cách tạo ra một mối liên kết chặt chẽ giữa trong nhà và ngoài trời. Trong khi người Tây phương luôn luôn nhấn mạnh vào các màu sắc và số lượng của vật liệu, hướng sự chú tâm vào vẻ đẹp của các bông hoa thì người Nhật Bản lại đặt nặng về các đường nét của cách xếp đặt, lối bố cục, và họ đã phát triển nghệ thuật cắm hoa bao gồm cả cành, cuống, lá cũng như hoa. Như vậy vật liệu dùng trong nghệ thuật cắm hoa không phải chỉ giới hạn vào màu sắc của bông hoa mà còn có vẻ đẹp nằm trong hình thể của lá và hoa, và trong sự tăng trưởng của hoa lá nơi thiên nhiên.  Ngay cả khi chỉ một loại hoa được sử dụng thì người cắm hoa cũng cố gắng để biến bình hoa đó thành một biểu tượng hoàn hảo của thiên nhiên.
 
ikebana-nghe-thuat-cam-hoa-nhat-ban
 
Trong cách cắm hoa, cần tới sự hiểu biết về dòng thời gian và người nào có con mắt phân biệt có thể dễ nhận ra được điều này. Sự cắm hoa phải biểu hiện được thời gian, tháng, mùa, cũng như sự tăng trưởng liên tục của vật liệu sử dụng. Thí dụ:
 
Quá khứ: dùng hoa nở hết, trái cây khô hay lá cây khô.
Hiện tại: dùng hoa nở nửa chừng hay lá cây hoàn hảo.
Tương lai: dùng nụ hoa, nụ lá để hứa hẹn sự tăng trưởng sắp tới.
 
Sự cân nhắc về vật liệu sử dụng cũng cần phải đi đôi với cách xếp đặt, trình bày:
 
Mùa Xuân: cách xếp đặt đầy sức sống với các đường cong biểu hiện sinh lực.
Mùa Hạ: cách xếp đặt tỏa ra và tràn đầy.
Mùa Thu: cách xếp đặt mỏng và thưa thớt.
Mùa Đông: cách xếp đặt đượm buồn và lắng nghỉ.
 
ikebana-nghe-thuat-cam-hoa-nhat-ban
 
Phương pháp cắm hoa phải mang tính cách tượng trưng, mô tả, nhưng một số hình thể của hoa lá lại phải được phối hợp với phong tục, tập quán và văn hóa. Vào các ngày quốc lễ, lại có một số cách cắm hoa được ấn định trước và vào các dịp lễ hội, các nghi lễ gia đình có thể bị coi là thiếu đầy đủ nếu không theo cách cắm hoa thích hợp và không trưng bày thứ hoa thích hợp. Hoa Cúc trắng là hoa của ngày tết đầu năm, trong khi vào ngày Tết búp bê (mồng 3 tháng 3), người Nhật thường dùng tới hoa Đào, và hoa Diên Vĩ (iris) là thứ hoa của ngày Tết con trai (mồng 5 tháng 5).
 
Triết Lý tiềm ẩn trong Nghệ Thuật Cắm Hoa Nhật Bản
 
ikebana-nghe-thuat-cam-hoa-nhat-ban
 
Nói một cách tổng quát, cách cắm hoa Nhật Bản gồm ba nhóm hoa hay cành lá xếp đặt theo hình tam giác. Nhóm chính ở giữa, thẳng đứng, nhóm thứ hai nghiêng về một bên so với nhóm chính và nhóm thứ ba ngược lại, nghiêng về phía đối so với nhóm thứ hai. Thêm vào đó, ba đường nét chính trong bình hoa hay lẵng hoa là thứ tượng trưng cho Trời – Đất – Người (Thiên, Địa, Nhân). Chính trong cấu trúc này mà cách cắm hoa được tạo nên.
Đường nét quan trọng nhất là cành hoa tượng trưng cho “Trời” (shin). Đây là đường trung tâm của toàn thể bình hoa, lẵng hoa, vì thế người ta đã chọn cành hoa nào mạnh nhất làm công việc này. Tiếp theo cành chính là cành thứ (soe), đại diện cho con người (Nhân). Cành này phải được xếp đặt thế nào để diễn tả rõ đường hướng phát triển, bung ra từ đường trung tâm. Chiều cao của cành thứ bằng 2/3 chiều cao của cành chính, lại có phần hơi nghiêng về cành chính.
 
ikebana-nghe-thuat-cam-hoa-nhat-ban
 
Cành thứ ba (hikae) tượng trưng cho “Đất” (Địa), là phần ngắn nhất, được đặt xoay về phía trước hay hơi đối nghịch với phía gốc của hai cành kia. Tất cả ba phần lại được cột chặt vào một bộ phận giữ và lại phải diễn tả cho thấy sự xuất phát từ một nguồn cội. Sau đó, các bông hoa khác được thêm vào mỗi phần nhưng cách bố cục khéo léo của ba phần chính kể trên được coi là quan trọng nhất.
 
Trong khi cắm hoa, người ta đặt chiếc khay đựng tất cả các hoa, lá, cành... về phía bên phải và bình hoa hay đĩa cắm hoa cách 60 phân trước mặt người cắm hoa. Nếu đặt đĩa cắm hoa gần hơn thì dễ cắm hơn, nhưng để có thể dễ nhận ra cách bố cục thì nên đặt bình hoa xa hơn một chút. Bình hoa cũng nên được đặt hơi cao hơn là hơi thấp, bởi vì nếu đặt thấp, người ta sẽ quen với cách nhìn xuống và ảnh hưởng mang lại sẽ khác khi bình hoa sau này lại được bày trên cao.
 
Phong cách cắm hoa cơ bản
 
Phong Cách Rikka
 
ikebana-nghe-thuat-cam-hoa-nhat-ban
 
Rikka là phong cách cắm hoa ra đời sớm nhất và vẫn được phổ biến cho đến ngày nay. Rikka có nghĩa là cắm hoa thẳng đứng, yêu cầu của kiểu cắm hoa này là bình dùng để cắm hoa phải cao và to, hoa cắm trong bình ở tư thế thẳng. Rikka thể hiện vẻ đẹp của tự nhiên. Một bình hoa Rikka luôn có 7 cành thể hiện cho đồi núi, thác nước, thung lũng và những sự vật khác trong tự nhiên.
 
Phong Cách Shoka
 
ikebana-nghe-thuat-cam-hoa-nhat-ban
 
Shoka là phong cách cắm hoa thông dụng nhất trong Ikebana. Nó có nghĩa là hoa sống. Xét về hình thức thì kiểu cắm hoa Shoka khá đơn giản nhưng để lột tả hết ý nghĩa của nó thì không phải ai cũng làm được. Một bình hoa shoka đạt yêu cầu là sự hội tụ đủ 3 thành phần: Ten, Chi và Jin nghĩa là Trời, Đất và Con người. Khi cắm, chiều cao và độ dài của các cành hoa phải thể hiện rõ vị trí của 3 yếu tố trên. Người ta dùng chiều cao của bình hoa làm chuẩn, nhành hoa cao nhất trong bình đại diện cho Thiên, chiều cao của nó bằng 3 lần chiều cao của bình hoa. Nhành hoa thứ 2 đại diện cho Nhân, cao chỉ bằng 2/3 nhành hoa Thiên và cành Địa thấp nhất, chỉ bằng 1/3. Một bình hoa được cắm theo đúng phong cách Shoka phải đáp ứng các quy tắc cân bằng nêu trên.
 
Shoka là phong cách cắm hoa được đơn giản hóa từ phong cách cắm theo kiểu thẳng đứng Rikka để phù hợp với nhiều tầng lớp dân chúng. Shoka thể hiện vẻ đẹp giản dị của tự nhiên bằng việc sử dụng ít cành lá nhưng thể hiện sự vươn lên hướng về mặt trời. Shoka theo thuyết Thiên – Địa – Nhân, trong đó có 3 cành chính với tên gọi là Shin – Soe – Tai, tượng trưng cho sự hòa hợp của Trời, Đất và Con người. Người Nhật thường dùng phong cách cắm hoa Shoka để trang trí nhà cửa trong những ngày đầu Năm Mới.
Phong cách Shoka nhấn mạnh đến sức sống, nguồn năng lượng đang phát triển. Những bình hoa được cắm theo phong cách Shoka thường được người Nhật bày trí ở hốc tường Tokonoma, nơi trang nghiêm nhất trong căn phòng.
 
Phong Cách Jiyuka
 
ikebana-nghe-thuat-cam-hoa-nhat-ban
 
Một phong cách cắm hoa tự do được phát triển từ những chuyển hướng nghệ thuật trong giai đoạn đầu thế kỷ 20. Jiyuka không bị ràng buộc bởi bất cứ quy tắc truyền thống nào và người thực hiện có thể sử dụng bất kỳ vật liệu nào để tự do sáng tạo theo cá tính của mình. Vì là một phong cách cắm hoa mới phù hợp với thời đại công nghiệp và đô thị hóa nên Jiyuka được người Nhật chào đón nồng nhiệt vào những năm 1920.
 
Với tình yêu và sự nâng niu lớn lao dành cho thiên nhiên của người Nhật, nghệ thuật cắm hoa Ikebana đã trở thành một trong những nét văn hóa đặc trưng của Nhật Bản và rất được nhiều người quan tâm. Các trường dạy nghệ thuật cắm hoa Ikebana đã có mặt ở khắp nơi trên thế giới, mang đến cho mọi người nét đẹp của tự nhiên.

Wednesday, September 3, 2014

Nét đẹp Hoa Quỳnh



     
Quỳnh một cây hoa được xem là quý nhất trong các loại hoa nở về đêm. Hoa quỳnh cũng được mệnh danh là Queen of the Night và là loại hoa nữ hoàng của bóng đêm chỉ nở dành riêng cho người quân tử biết thưởng thức.

Trước đây ở nước ta trong các tác phẩm văn chương một loài hoa đã được đề cập đến như một huyền thoại dành cho giới thượng lưu và tao nhân mặc khách thưởng lãm. Vì sự quý hiếm và chăm sóc rất công phu. Bởi thứ hoa nầy mỗi năm chỉ nở một lần vào dịp cuối năm và đúng nửa đêm. Do đó rất ít người trong chúng ta có duyên được ngắm loài hoa từng được ca ngợi nầy, đó chính là Hoa Quỳnh. Nhạc sĩ TCS đã từng đề cập đến loài hoa nầy trong một ca khúc của mình, mời quý vị cùng thưởng thức một số hình ảnh dưới đây để biết thêm về những loài hoa nở về đêm. Ngoài ra Hoa Quỳnh còn được đề cập đến như một vị thuốc đặc trị chữa bệnh, mời tham khảo.

 



Hoa Quỳnh nở được tin tưởng là sẽ đem may mắn và hạnh phúc đến cho người trồng…

Tuy nhiên, tại Hoa Kỳ, Quỳnh lại rất dễ gặp, dễ trồng và có rất nhiều chủng có hoa nở cả ngày lẫn đêm và đủ mọi màu sắc. Ngoài ra còn có loại Quỳnh cho quả ăn không kém phần bổ dưỡng!

 
 
Quỳnh có nguồn gốc từ Trung Mỹ (Mexico, Honduras, Guatamela, Cuba…) thuộc gia đình Xương rồng (Cactaceae).

Trong nhóm Quỳnh có những cây trổ hoa về đêm và những cây cho hoa nở giữa ban ngày.












Quỳnh cho hoa nở về đêm















 

Nhóm Quỳnh này, gồm nhiều loại thường được gọi chung là Night blooming cereus, bao gồm các chi Helicocereus, Selenicereus và Peniocereus, cùng một số loài lai tạo (hybrid).

 

Trong nhóm này, cây cho hoa đẹp và quý nhất là Epiphyllum grandilo bum (hay E. Oxypetalum, tên cũ là Cereus Oxypetalis). Còn có những tên Night-flowering cactus, Orchid cacti, Dutchman's pipe cactus. Cây mọc rất nhiều tại Hawaii.

 

Cây thuộc loại bụi, mọc vươn dài hay sống dựa, gốc thân hình trụ; phần trên và cành đều dẹt như lá có gân giữa cứng. Thân mọng nước, cao 2-3 m, mép thân uốn lượn, có khía tròn, màu xanh dày và bóng. Hoa nở về đêm, lớn, dài cỡ 30 cm mọc thòng xuống, màu trắng có nhiều lá bắc hình vẩy ở gốc, phủ kín cuống dài mọc ra từ phần gân giữa của thân. Cánh hoa dài, thuôn, mảnh mai, màu trắng, xếp theo hình xoắn ốc. Hoa có nhiều nhụy, xếp thành 2 hàng; bầu có vòi dài màu trắng, có mùi thơm. Hoa rất chóng tàn. Hoa thường trổ vào các tháng 6-8.

 

* Tại miền Tây Bắc Hoa Kỳ, cây Quỳnh Peroucereus peruvianus là cây rất dễ trồng: có thể cao 30-50 ft, phân nhánh nhiều, lá dẹt màu xanh xậm mọng nước có thể có ít gai. Hoa màu trắng, dài 6-7 inches, nở tỏa đến 5 inches. Hoa nở về đêm, thường vào tháng 6. Chủng đặc biệt Monstrosus, nhỏ hơn, mọc chậm hơn, cho hoa đẹp hơn.

 

Quỳnh cho hoa nở ban ngày

Nhóm này có rất nhiều cây đã được lai tạo để trồng làm cây cảnh trong nhà. Những cây đáng chú ý như:

- Cây Quỳnh đỏ: Epiphyllum akermannii = Epiphylle d'Aclerman. Cây có hình dáng tương tự như E.Oxypetalum: thân dẹt, màu xanh bóng có múi nhỏ và phân cành ngắn. Hoa lớn, nở ở đầu cành. Cánh hoa dài, mảnh mai, phía ngoài màu đỏ tươi, phía trong đỏ-hồng. Hoa có nhiều nhị, bầu có vòi màu đỏ nhạt. Hoa nở ban ngày và tương đối bền.

 

- Nhóm Epiphyllum lai tạo: Nhóm này bao gồm nhiều loài Quỳnh, được trồng làm cây cảnh trong nhà tại Hoa Kỳ. Hoa nở ban ngày, lớn từ cỡ trung bình đến rất to (nở tỏa đến 10 in.), hoa có thể màu trắng, crem, vàng, hồng, tím, đỏ tía…và cam. Có những chủng cho hoa pha trộn 2-3 màu. Nhóm Quỳnh này không được những nghệ nhân ưa thích...

 

Kỹ thuật trồng Quỳnh nở về đêm:

Trồng Quỳnh để có hoa nở về đêm được xem là tương đối dễ dàng (?). Sau đây là cách trồng của một chuyên gia về Quỳnh tại Portland (Oregon): Cắt một đoạn lá từ cây gốc, ngâm trong nước đến khi rễ mọc ra từ lá, và trồng cây vào chậu có hỗn hợp 2/1 đất potting và peat. Giữ cây đủ ẩm trong mùa hè và khô trong mùa đông. Chăm sóc cây bằng cách tưới phân Peter 2 tuần một lần. Khi cây bắt đầu đâm chồi, dùng phân có chứa nhiều phosphorus hơn.

 

Trong các tháng 10-11, tùy thời tiết có giá lạnh hay không, chuyển cây vào trong nhà xe để có độ lạnh-mát cần thiết thúc cây nở hoa. Ðưa cây ra ngoài trở lại vào tháng 4-5 (tùy thời tiết bên ngoài), điều quan trọng là giữ quỳnh đừng chịu ánh nắng trực tiếp mỗi ngày quá 1 giờ (nắng sáng hay chiều, tránh nắng giữa trưa). Quỳnh sẽ trổ hoa trong tháng 9. Hoa bắt đầu nở khoảng 9 giờ tối, tỏa mùi hương thơm và nở trọn vẹn vào nửa đêm, rồi tàn ngay vào sáng hôm sau. (Theo Peter Hines. The Oregonian, Home and Garden, October 2, 2003)
 

Tác dụng dược học:

Các nghiên cứu về dược học của Quỳnh hầu như chỉ được thực hiện tại Ðài Loan. Tài liệu duy nhất lưu trữ tại một số ÐH Hoa Kỳ là bản dịch từ 'Pharmacological Effects of Epiphyllum oxypetalum' của các tác giả Chow SY, Chen CF và Chen SM trong Taiwan Yi Xue Hui Za Zhi (Ðài loan Y Dược Hội Tạp Chí Số tháng 12 năm 1977)

 

Phần được dùng làm dược liệu là Hoa và Thân.

- Hoa được xem là có vị ngọt, tính bình, có các tác dụng chống viêm, chống sưng và cầm máu. Hoa thường được dùng để chữa ho ra máu (lao phổi), xuất huyết tử cung, sưng cổ họng: Sắc và uống 3-5 hoa. Hoa cũng được nấu chung với thịt heo để trị sưng phổi, ho và các bệnh đường hô hấp.

Có thể giã nát, đắp lên vết thương sưng, đau:

- Thân, có vị chua, mặn, tính mát có tác dụng chống sưng.

- Toàn cây có tác dụng thanh phế, trị họ.

Thân Quỳnh có chứa chất nhày trong đó có một số heterosid flavonic. Hoa có các hoạt chất loại hentriacontane và beta-sitosterol.

 

Quả của Quỳnh loại Hylocerus undatus có (tính theo 100 gram quả):

- Calories: 346 ; Chất đạm 9 % ; Chất béo 2.6 %; Carbohydrate tổng cộng 84.6%; Chất sơ 9.0%; Tro 3.8 %.

- Calcium 64 mg ; Phosphorus 167 mg ; Sắt 8.3 mg

- Thiamine 0.26 mg ; Riboflavine 0.26 mg ; Niacin 1.92 mg và Vitamin C 51.3 mg.

Tại Ấn Ðộ: Ðọt non của Quỳnh Selenicereus grandiflorus được dùng để thay thế một phần digitalis làm thuốc trợ tim.

 

Thursday, August 28, 2014

Truyền thuyết hoa Lan Đốm


Hoa Lan đốm – Truyền thuyết hoa Lan đốmTính tình lẳng lơ của Cucuxca, một cô gái nhà quê, khiến cho đám chị em phải ghen tức, song Cucuxca chỉ phẩy tay cười:
- Các người đã ghen tức ta khi ta có nhiều chàng trai đến tán tỉnh. Không phải vô cớ mà ta đào hoa hơn các người đâu.
Cô cười khì khì và cất tiếng hát cho đến khi có chàng trai đầu tiên trong làng dẫn cô vào rừng tìm kiếm loài hoa dương xỉ. Họ có tìm được hoa hay không, không ai biết, chỉ biết là sau đêm lễ thánh, Cucuxca trở nên thuần tính hơn, và các chàng cũng xa lánh dần ngôi nhà của cô.
Rồi một hôm Cucuxca biến mất khỏi làng. Đến mùa Xuân có một đứa trẻ chào đời. Dân làng kháo nhau, Cucuxca sẽ mang về nhà một chú bé hoặc một con nhóc, song cô lại về tay không.
- Cô giấu đứa trẻ ở đâu? – Các chị em hỏi.
- Ta đã trao nó cho chị Chìa Vôi, nhờ nuôi hộ – cô gái đáp.
- Vì sao cô không nuôi nó?
- Ta không ngốc nghếch như các người đâu. – Cucuxca cười – Suốt ngày đêm các người bị trói buộc vào chiếc nôi con trẻ, không buồn tơ tưởng đến lời ca và điệu múa nữa. Ta thì muốn ngợi ca tuổi trẻ của mình. Ha ha – cô gái nhón chân quay ba vòng.

Truyền thuyết hoa Lan đốm – Hoa tươi đẹp- Bây giờ cô chỉ lo hát hỏng, mai này về già, cô sẽ đơn độc như cái gốc cây không có đọt mầm.
- Ha ha ha! Nhưng các người đang phí phạm cả tuổi thanh xuân của mình bên những chiếc nôi và những đống tã lót.
- Nhưng xung quanh ta còn có con trẻ nô đùa, lúc về già ta có thêm cháu chắt quây quần.
- Khi về già ta sẽ tìm kiếm các con ta và bắt chúng phải nuôi ta. Luật pháp là luật pháp – Cucuxca nói bằng một giọng đầy tự mãn.
Cô gái đã sống suốt cả cuộc đời như vậy – nghĩa là mỗi năm cô cho ra đời một đứa trẻ, nhưng ai là người nuôi nấng chúng, bản thân cô cũng như mọi người đều không hề biết.
Số phận của những kẻ luôn đặt hy vọng vào việc chăm lo giữ gìn tuổi trẻ của riêng mình thật là trớ trêu. Cucuxca chưa bước vào tuổi lên lão mà tóc đã bạc trắng, da mặt nhăn nhúm, lưng còng hẳn xuống. Lúc này đây nó mới thấy thương nhớ các con của mình và trông mong sự giúp đỡ của chúng.
Cucuxca đến nhà chim Chìa Vôi than thở với chị ta về nỗi đau khổ của mình. Vì nhẹ dạ, cô đã cho đi đứa con dứt ruột để ra, và bây giờ cô khao khát muốn xin lại nó.
Chìa Vôi không phải là ả ngốc nghếch, bèn hỏi xem Cucuxca đã trao cho ai đứa trẻ nào, trai hay gái? Trong khi Cucuxca sụt sùi khóc thì chị Chìa Vôi cười bảo:
- Sao không hát hỏng nữa đi…..


- Cucu! – Cucuxca nổi giận, chỉ cho Chìa Vôi xem chiếc mỏ dài – thì cứ giữ lấy đứa bé ta đã sai lầm cho đi ấy. Không vì thiếu nó mà ta hoá ra người hiếm hoi đâu. Ta sẽ đến gặp chị chim Cước Bạc Má, có thể chị ta sẽ không đến nỗi hẹp hòi vậy đâu.
Thật ra chim Cước Bạc Má rất thương Cucuxca, nhưng nó còn thương đứa con của Cucuxca mà nó đã chăm sóc, cho bú mớm cẩn thận hơn cả con đẻ. Chim Cước Bạc Má bảo Cucuxca chờ rồi nó đích thân chạy đến khắp các nhà mà nó biết có những đứa con của Cucuxca vào rừng và để cho Cucuxca hỏi xem có đứa con nào chịu nhận Cucuxca làm mẹ không.
Cucuxca hỏi đứa thứ nhất, nó đáp:
- Cu-cu!
Hỏi đứa thứ hai, nó trả lời:
- Cu-cu!
Và tất cả đều đáp một giọng:
- Cu-cu! Cu-cu!
Cucuxca tức giận đe doạn lũ con:
- Bọn bay đã thoái thác nghĩa vụ của mình trước người mẹ, ta sẽ đưa cả lũ ra toà.
- Con cái phải có những nghĩa vụ gì trước một người mẹ đã thoái thác trách nhiệm đối với con cái, thưa bà? – Lũ con của Cucuxca hỏi.
Cucuxca đã không đủ can đảm để nhận ra sự thật. Nó bất lực, đau đớn, lẳng lặng lết vào rừng rồi ngã vật xuống một đám rêu, nằm chờ chết.

Truyền thuyết hoa Lan đốm – Hoa phong Lan đốm
Bỗng có tiếng cành cây gãy răng rắc và Cucuxca ngẩng đầu lên. Một cô gái chân khập khiễng đang tiến lại gần.
Cô gái trao cho Cucuxca và nói:
- Hãy uống đi, hỡi mẹ, nhựa bạch dương đấy.
Cucuxca ngạc nhiên trước câu nói vừa nghe được:
- Con gọi ta là gì, hãy nhắc lại ta nghe nào, Cucuxca khẩn khoản.
- Mẹ thân yêu. Mẹ chính là mẹ của con mà – cô gái đáp và nhìn Cucuxca âu yếm.
- Mẹ! – Tiếng nói tuyệt diệu làm sao! Hãy nhắc lại gần nữa đi, nhắc lại đi.
- Mẹ!
- Nhưng vì sao con biết rằng ta là mẹ của con? – Bỗng dưng Cucuxca nghi ngại.
- Con lớn lên ở nhà bác Bách Thanh. Mẹ nuôi của con rất tốt đối với con, song bố dượng thì ghét bỏ, chửi bới. Một hôm ông uống rượu say về nhà và ném con ra sau cánh cửa. Từ đó con bị tàn tật. Con đã lần mò khắp các ngõ ngách trên đời này để tìm mẹ, mẹ ơi – cô gái ôm ghì lấy Cucuxca và cho mẹ uống nhựa bạch dương.
- Ôi ta mới ngu ngốc làm sao, – Cucuxca than thở – Ta đã không hiểu hạnh phúc là gì khi ta được gọi bằng một từ kỳ diệu nhất – “Mẹ”
Những giọt nước mắt to tròn trong suốt tràn ra từ khoé mắt Cucuxca – đó là những giọt nước mắt đầu tiên trong đời nàng và, ngay chính chỗ những giọt nước mắt vừa rỏ xuống đó đã mọc lên một bông hoa trắng ngần mà người đời quen gọi là Hoa Lan Đốm, hay “Hoa nước mắt của 
nàng Cucuxca”.


Sự tích hoa cúc trắng



Nếu tôi hóa kiếp đời hoa
Xin làm cúc trắng thướt tha dịu mềm
Trầm tư cảnh vắng chiều êm
Dịu dàng khép cánh màn đêm thẫn thờ
Vầng dương chợt động cơn mơ
Ánh mai hé mở như chờ đợi hoa
Lung linh những hạt sương sa
Cùng tia nắng mới chan hòa niềm vui
Bỗng dưng xao xuyến ngậm ngùi
Hồn hoa thổn thức khung trời lệ rơi...






Theo thần thoại La Mã, bông hoa nhỏ bé này có nguồn gốc từ Belides, một trong các nữ thần chăm sóc các khu rừng. Một hôm, khi Belides đang nhảy múa với người yêu của mình là Ephigeus, cô đã lọt vào mắt xanh của Vertumrus, một vị thần cai quản các vườn cây. Để bảo vệ cô khỏi sự săn đuổi này, Flora – nữ chúa các loài hoa – đã biến cô thành một đóa hoa cúc trắng.

Một trong các nhà thơ lớn người Celte (Ailen) lại đưa ra một nguồn gốc về loài hoa cúc mang nhiều vẻ thần thoại hơn: Hoa cúc trắng đã được gieo trồng lần đầu tiên lên ngôi mộ của một hài nhi bởi những đôi tay mềm mại của các thiên thần nhỏ bé. Hoa cúc trắng chính là linh hồn những hài nhi đã chết khi vừa mới sinh ra. Chúa rải hoa cúc khắp núi đồi và thảo nguyên, khắp trần gian để làm vơi đi nỗi buồn của những người cha mẹ ấy. Truyền thuyết đó đã lý giải phần nào vi sao hoa cúc (daisy) mang ý nghĩa sự trong trắng, ngây thơ.

Trong dân gian, Hoa cúc là loài hoa quý nằm trong “tứ bình” hay “tứ quý”. Nói đến những loài hoa quý, được dân gian ưa chuộng nhiều, người ta thường nói đến bộ “tứ bình” (bức tranh treo ở bốn phía quanh nhà), gồm có bốn loại hoa: Mai, Lan, Trúc, Cúc . Hoặc nói về “tứ quý” người ta muốn ám chỉ đến bốn loại cây cảnh : Tùng, Cúc, Trúc, Mai . Người xưa yêu hoa Cúc vì đó là loài hoa biểu lộ đặc tính “diệp bất ly chi, hoa vô lạc địa” (nghĩa là lá không rụng khỏi cành, hoa cũng chẳng lìa thân, dù héo rũ tàn khô, vẫn luôn bám lấy cành như người quân tử đầy chí khí suốt đời trung thành, theo đuổi lý tưởng chân chính của mình). Trong quốc huy nước Nhật cũng có hình hoa cúc, có lẽ cũng vì ý nghĩa cao quý đó.
“Marguerite” – tên tiếng Pháp của hoa cúc, có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là hạt ngọc trai “pearl”. Người ta nói rằng, St. Louis đã khắc hình hoa cúc cùng với hoa diên vĩ (fleur-de-lis) và thánh giá trên chiếc nhẫn của ông. Chiếc nhẫn này, theo lời nhà vua, tượng trưng cho tất cả những gì ông yêu quý nhất : tôn giáo, nước Pháp, và vợ ông – Marguerite. 

Có một câu nói xưa của người Anh bảo rằng mùa xuân vẫn chưa đến cho tới khi bạn có thể đặt bàn chân mình trên 12 bông cúc. Họ cũng cho là, nếu bạn mơ thấy hoa cúc vào mùa xuân hay mùa hè thì tốt, nhưng nếu vào mùa thu hay mùa đông thì lại là điềm chẳng lành. Nếu một cô gái nhỏ nhắm mắt lại và hái một chùm cúc dại rồi đếm thì số hoa trong chùm hoa đó sẽ là số năm còn lại trước khi cô lấy chồng. Các thiếu nữ cũng thường bói tình yêu bằng cách lần lượt bứt từng cánh của một bông cúc dại đồng thời lập đi lập lại điệp khúc: “Yêu …. Không yêu …. Yêu …”

Sự tích hoa cúc vàng






Mùa hè hai đứa chia tay
Phượng phai sắc thắm hẹn ngày thu sang
Tóc em giắt đóa hoa vàng
Tựu trường hai đứa ngỡ ngàng nhìn nhau
Bây giờ em ở nơi đâu
Ở xa bên ấy có sầu nhớ chăng
Bài thơ hoa cúc tặng nàng
Em ơi có hiểu lời vàng ý thơ ?
Thẹn thùng đôi mắt em mơ
Thủy chung có phải tình thơ Cúc Vàng ...






Chuyện kể rằng, hồi đó có một gia đình nghèo có 2 mẹ con sống rất yên bình trong một ngôi nhà nhỏ. Người mẹ tần tảo làm lụng nuôi con. Người con còn nhỏ nhưng rất hiếu thảo, biết vâng lời và chăm chỉ.
    Nhưng rồi một ngày kia, người mẹ bỗng lâm bệnh nặng. Người con thương mẹ lắm, nên dù nhà nghèo em vẫn cố gắng chạy chữa những thầy lang giỏi nhất vùng. Nhưng sức khỏe người mẹ càng ngày càng yếu đi. Người con lo lắm, quyết tâm đi tìm thầy chữa bệnh cho mẹ.


    Em đi mãi, đi mãi, qua bao nhiêu làng mạc, núi sông, ăn đói mặc rách vẫn không nản lòng. Một hôm đi qua một ngôi chùa, em xin phép nhà sư trụ trì được cầu phúc cho mẹ, tấm lòng hiếu thảo của em động đến cả trời xanh. Trời nghe phải nhỏ lệ, đất nghe phải cúi mình. Ông Bụt từ bi cảm thương tấm lòng hiếu thảo của người con, động lòng trắc ẩn Người đã hóa thân thành một nhà sư, đi ngang qua chùa và tặng em một bông hoa vàng rực.
    Ông Bụt nói: ”ta cho con bông hoa này, nó là biểu tượng của sự sống, là bông hoa chứa đựng niềm hi vọng, là ước mơ của loài người, là thần dược để chữa bệnh cho mẹ con. Nhưng con phải nhớ, cứ một năm thì hoa sẽ rụng đi một cánh hoa, bông hoa này có bao nhiêu cánh thì mẹ con chỉ sống được bấy nhiêu năm. Nhưng mỗi một cánh hoa rụng đi, cuộc sống của con cũng mất đi một năm”. Người con cảm tạ Ông Bụt và đếm cánh hoa. Rất đau buồn khi biết bông hoa chỉ có năm cánh, nghĩa là người mẹ chỉ sống với em được năm năm nữa.
Thương mẹ quá, em đã xé nhỏ từng cánh hoa cho đến khi không còn đếm được bông hoa có bao nhiêu cánh nữa. Bà mẹ nhờ có bông hoa thần dược đó mà sống rất lâu nhưng người con hiếu thảo thì không sống được bao nhiêu năm. Thương con, bà mẹ đã chôn người con ngay tại trong vườn nhà. Và lạ thay, trên ngôi mộ của em, hoa cúc mọc khắp mộ và lan rộng ra cả vùng. Bông hoa vàng rực vô số cánh là biểu tượng của sự sống, là ước mơ trường tồn, là khát vọng chữa lành mọi bệnh tật của con người. Sau này, người đời gọi là Hoa Cúc.