'cookieChoices = {};'
Showing posts with label Saigon xưa. Show all posts
Showing posts with label Saigon xưa. Show all posts

Tuesday, February 3, 2015

Món ngon ngàyTết miền Bắc

Bánh chưng xanh là linh hồn của ngày Tết cổ truyền, thể hiện tinh hoa đất trời qua bàn tay khéo léo của con người. Trên bàn thờ tổ tiên người miền Bắc dịp Tết không thể thiếu cặp bánh chưng xanh.





Dưa hành thường được sử dụng như một món ăn kèm với bánh chưng hoặc với các loại thịt nhiều mỡ (thịt đông, thịt kho Tàu, thịt luộc) cho đỡ ngán trong những ngày Tết. Vị chua dịu, cay nhẹ của dưa hành vừa giúp gia tăng hương vị vừa giúp cơ thể dễ tiêu hóa thức ăn.
Trước hết, bạn cần lựa loại hành già, củ chắc, cắt bỏ phần đuôi chỉ chừa lại phần rễ. Sau đó, ngâm hành vào trong nước tro có pha hàn the trong khoảng thời gian 2 ngày 2 đêm. Tiếp theo, vớt hành ra, cắt bỏ rễ, lột vỏ chỉ còn lại khoảng 5cm rồi xếp hành vào khạp, rải muối, bỏ một lớp mía chẻ mỏng, rồi đến lớp hành gài lại bằng những vỉ tre. Sau 2 tuần, bạn có thể lấy hành ra cho vào keo thủy tinh, rồi nấu nước dấm đường để nguội cho vào. Khoảng 3 ngày là ăn được.

Giò nạc, giò thủ
Đối với người Việt Nam, trong mâm cỗ ngày Tết từ xưa đến nay, đĩa giò, đĩa chả luôn giữ vị trí mỹ vị và đã trở thành món ăn không thể thiếu.
Giò là thịt giã trong cối đá cho thật nhuyễn, gói lá chuối thành hình ống, buộc lạt giang, rồi mang luộc, nhưng hấp thì giò ngon hơn. Giò thái theo khoanh, trắng mịn, bày lên đĩa, phải sắt giò cho gọn, trông đẹp mắt và dễ gắp. Khoanh giò trắng mịn, có vài lỗ nhỏ bằng hạt gạo do nước thoát ra thành bọt khi hấp, đó là giò lụa, làm bằng thịt heo (người Bắc gọi là thịt lợn). Nếu dùng thịt bò thì chỉ còn tên là giò bò.
Giò dùng thịt đầu heo thì gọi là giò thủ. Làm Giò thủ, tai heo, thịt thủ, không giã mà thái nhỏ, trộn thêm mộc nhĩ (nấm mèo), nước mắm, hạt tiêu rồi xào chín (xào là chiên trong chảo, giữ lửa cho đều và đảo luôn tay). Xong, gói bằng lá chuối tươi, buộc lạt cho chặt rồi luộc hoặc hấp cách thủy. Khi giò chín, vớt ra rồi ép, dùng 4 thanh tre cặp quanh khoanh giò, cột cho chặt, treo trên bếp. Khi ăn cũng thái như giò lụa.

Thịt đông là món riêng có của mùa đông xuân Bắc bộ. Trong làn không khí lạnh, thịt đông trở nên ngon hơn. Món này được làm từ thịt heo ba chỉ, đôi khi được sử dụng cả gà, cộng thêm một mảng bì lợn. Tất cả đều được ninh nhừ. Sau khi nấu xong, bạn lấy khỏi bếp và đặt nồi thịt ra ngoài sân, đậy kỹ cho nó ăn gió uống sương, thu lấy cái rét mướt từ trời cao và đất thấp vào mình để sớm hôm sau, nhà ta đã có nồi thịt đông kỳ diệu. Trên mặt của nồi thịt đông là lớp ván mỡ có màu trắng như tuyết pha sắc vàng mịn như mặt hồ không gợn sóng. Một miếng thịt đông kèm một củ dưa hành, thì thật đúng nghĩa Tết bắc.

Thịt bò kho quế
Thông thường, món này được chuẩn bị từ ngày 29 Tết để kịp cúng trưa 30 và mấy ngày Tết. Để làm món này, người ta chọn loại thịt bò nạm. Sau đó ướp với chút nước cốt tỏi, chút mắm muối rồi cho thịt ba chỉ cắt mỏng vào giữa, cuộn tròn lại, dùng lạt buộc chặt rồi chiên sơ trước khi cho vào nồi kho. Tiếp theo bạn có thể thả miếng thịt bò vào nồi nước sôi đã có sẵn nước tương, chút đường và một miếng quế nhỏ rang thơm, nấu cho đến khi thịt mềm thì vớt ra, để nguội. Gỡ bỏ những cọng lạt và cắt thịt thành khoanh, miếng thịt bò mềm mà chắc chứ không nát, lẫn vào mầu nâu của thịt bò là màu trắng của mỡ heo. Món này bạn có thể ăn kèm với bánh chưng hay cơm nếp vào ngày Tết thì tưởng như không có gì ngon bằng.

Nem rán là món ăn dễ chế biến, đã trở thành món ăn quen thuộc trong các gia đình Việt Nam, đặc biệt là trong những dịp Tết.
Nguyên liệu để làm nhân nem rán gồm: thịt lợn nạc (ngon nhất là nạc dăm) băm nhỏ, thịt cua bể hay tôm nõn, nấm hương, mộc nhĩ, hành khô, giá sống (hay củ đậu), trứng, hạt tiêu, muối, gia vị… Tất cả trộn đều rồi dùng bánh đa nem (miền Nam gọi là bánh tráng) đã được nhúng nước cho mềm gói lại thành những cuốn tròn rồi rán chín vàng trong chảo ngập mỡ. Bánh đa nem phải kén loại bánh tráng mỏng và dai để gói thì nem rán sẽ ngon hơn, vỏ giòn mà không bị vỡ.
Nước chấm nem rán phải pha chế thật ngon, khéo điều hòa giữa vị mặn của nước mắm ngon, vị ngọt của mì chính, đường (nếu pha bằng nước dừa tươi thì không cần đường), vị chua của chanh (hay dấm) rồi hòa chung với nước lọc, thêm vào ít tỏi băm nhỏ, vài lát ớt tươi sao cho vừa đủ độ mặn, ngọt, chua, cay, dậy mùi thơm của tỏi, ớt.
Bên cạnh những món nem, giò chả dễ gây ngán trong ngày Tết mâm cỗ ngày Tết không thể thiếu món rau nộm. Nộm có nhiều khúc biến tấu khác nhau: nộm rau muống, hoa chuối, xu hào…. nhưng tựu chung đều rất đơn giản, dễ làm và rất được ưa chuộng trong những ngày Tết.



Canh măng lưỡi lợn
Măng khô, ngon nhất là măng lưỡi lợn, tức lấy phần mầm non vừa nhú, xẻ ra phơi, nó giống hình lưỡi của con lợn, đặc, chắc và nhuyễn không có sợi xơ. Măng đem ngâm nước ấm, luộc và xả cho ra hết chất quánh lâu ngày, rồi thái miếng vừa ăn. Trước khi nấu có thể xào với mỡ, hành và nêm gia vị cho thấm. Thịt ninh măng có thể là cổ, cánh, chân gà, nhưng thích hợp nhất là chiếc giò lợn. Giò chặt hình quân cờ vừa ăn. Xếp một lớp măng, một lớp giò heo vào nồi (có thể cho vài mảnh quế và hồi cho thơm) đổ nước xâm xấp, hầm với lửa cháy vừa phải. Thường xuyên hớt bọt và châm thêm nước cho đến khi thịt và măng chín mềm, nêm nếm vừa ăn, cho hành, mùi, rắc tiêu. Trong nồi hầm sục sôi ấy, thịt và măng có sự tác động lẫn nhau và giao hòa tuyệt vời, mỗi thứ đều được tôn lên về chất. Miếng thịt giảm bớt béo ngấy, giữ độ ngọt cộng thêm mùi thơm thảo mộc thâm trầm, quyến rũ. Miếng măng nhận vào vị béo vị ngọt của thịt, mà vẫn giữ cái bùi, cái đậm, chất thanh nhã của rừng.

Canh bóng thập cẩm



Canh bóng thì chân tẩy bằng su hào, cà rốt, đậu Hà Lan. Su hào, cà rốt được cắt tỉa hoa, khi nấu lưu ý không để nát. Giò lụa và trứng tráng mỏng thái chỉ, tôm bông, mỗi thứ để một góc, trên đặt mấy cọng rau mùi. Khi ăn gắp mỗi thứ một ít, bỏ vào bát. Phụ gia còn có tôm nõn và thịt thăn. Hai thứ này cho vào nước dùng nấu trước cho ngọt.

Món ăn ngon ngày Tết của miền Trung





Bánh tổ.
Bánh tét.
Củ cải kho thịt heo.


Giống miền Bắc ngày Tết không thể thiếu dưa hành muối thì dưa củ kiệu là món ăn phổ biến của miền trung.
Dưa món cũng là món ăn nhiều tỉnh miền Trung ăn Tết.
Bánh thuẩn.

Gà luộc lá chanh.
Giò bò tiêu sọ.
Gỏi thập cẩm rau củ.
Nem chua rán phổ biến ở Thanh Hóa.
Bò kho mật mía là món ăn không bao giờ thiếu.





Thịt lợn ngấm nước mắm được người dân miền trung 
đặc biệt ưa thích.
Tôm chua đặc sản cũng là món ăn Tết truyền thống của Huế.
Món xôi mà người dân miền Trung thường nấu ngày Tết là xôi đỗ xanh.





Bánh chưng

Truyện Bánh chưng (ngày nay thường gọi là Bánh chưng, bánh giầy) mà hầu hết người Việt đều biết, được chép trong sách Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp (thế kỉ 14). Truyện tóm tắt như sau :
Vua Hùng Vương muốn truyền ngôi. Ngài gọi các con đến, hứa sẽ chọn người nào làm được món ăn ngon để dâng cúng tổ tiên. Các hoàng tử thi nhau tìm kiếm của ngon vật lạ, sơn hào hải vị, để làm món ăn dâng lên vua cha. Lang Liệu nhà nghèo, chưa biết phải xoay xở ra sao thì một đêm được thần nhân báo mộng, chỉ cho cách làm bánh chưng (hình vuông) và bánh giầy (hình tròn).
Đến kì hẹn, vua Hùng Vương nếm các món ăn. Ngài khen bánh của Lang Liệu vừa có ý nghĩa tượng trưng cho "trời tròn đất vuông", vừa có mùi vị thơm ngon, được làm toàn bằng sản vật của đồng quê nước ta.
Lang Liệu được vua cha truyền ngôi.
Truyện Bánh chưng giản dị, dễ hiểu. Chỉ có tên bánh mới...hơi khó hiểu. Xin bàn về cái tên Chưng.
Bánh chưng
Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của đưa ra 2 cách giải thích :

1- Bánh chưng : bánh gói bằng nếp làm ra hình vuông vuông cùng kêu là địa bỉnh, hiểu nghĩa trời tròn đất vuông, phải chưng hấp theo phép cho nên gọi là bánh chưng.
Giải thích của Huỳnh Tịnh Của không ăn khớp với câu văn của Lĩnh Nam chích quái. Trần Thế Pháp viết : " Chử nhi thục chi. Hiệu viết chưng bính " ( Nấu chín. Đặt tên là bánh chưng). Trần Thế Pháp dùng chữ chử (bộ hoả) nghĩa là nấu, chứ không dùng chữ chưng (chưng hấp, nấu cách thuỷ). Thực tế thì chưa thấy ai chưng hấp hay nấu cách thuỷ cái bánh chưng vừa được gói xong. Thông thường thì luộc bánh phải đổ đầy nước, đun sôi rất lâu, suốt cả đêm, bánh mới chín.

2- Bánh chưn : bánh vuông dẹp giống cái bàn chưn, thủ nghĩa địa phương, cũng gọi là địa bỉnh.
Chèng đéc ôi. Chòm xóm ra mà coi nè. Dân Giao Chỉ nào mà bàn chưn lại vuông dẹp như viên gạch Bát Tràng vậy?
Mới nghe tưởng là một câu nói đùa. Nhưng Huỳnh Tịnh Của có nhắc đến địa bỉnh tức là cái bánh được chưng hấp của ông. Mặc dù Chưng và Chưn được người miền Nam phát âm giống nhau, nhưng đó không phải là lí do để nhìn cái bánh chưng thấy giống cái bàn chưn... dị dạng.
Cả hai lối giải thích tên bánh chưng của Huỳnh Tịnh Của đều không thỏa đáng.
Tiếng Việt ngày nay có chữ Chưng, nghĩa là " cố ý đưa ra, bày ra cho nhiều người thấy để khoe ". Ngoài ra, tiếng Việt lại còn có chữ Trưng, nghĩa là " Để ở vị trí dễ thấy nhất, sao cho càng nhiều người nhìn thấy rõ càng tốt " (Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê).









Thật ra thì Chưng (diện) cũng giống Trưng (bày). Chưng bày hay trưng bày, chưng bằng cấp hay trưng mặt hàng đều là " khoe ", là (phô) trương cả. Chữ Hán (bộ sách) còn có từ Chưng (Thiều Chửu), hay Trưng (Đào Duy Anh) có nhiều nghĩa nhưng tất cả đều không dùng cho tên bánh được.
Tóm lại, Chưng hay Trưng, Hán hay Việt, đều không giải thích được cái tên bánh.
Nếu vậy thì Chưng là... chữ nôm chăng?
Tự vị của Huỳnh Tịnh Của (1895), Génibrel (1898), Gustave Hue (1937) có từ Chuông (nôm) nghĩa là : bốn phía vuông vức bằng nhau, carré. Chuông biền sắc cạnh nghĩa là : cả biền cạnh đều vuông tượng sắc sảo (thường nói về đồ mộc), qui a la forme d'un carré parfait. Một chuông nhiễu là một thước nhiễu đo vuông, un mètre carré.
Truyện Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự ( 1743-1790) có câu :
Lễ hôn chuông chắn mọi đường
Quế càng hương chắp gấm càng hoa thêm
Chuông chắn nghĩa là vuông vắn, đầy đủ (Vương Lộc, Từ điển từ cổ, Đà Nẵng, 2002). Việt Namtự điển của hội Khai Trí Tiến Đức (1931) cho rằng Chuông là do Vuông đọc trạnh ra, dùng để nói về cách đo vải lụa (Một chuông lụa, một chuông vải).
Tự điển Việt-Pháp của Đào Đăng Vỹ (Khai Trí, 1964) có Chuông vải (carré détoffe), giấy chuông (papier carré). Từ điển Việt-Hán, Hán-Việt của Phạm Cần (Thanh Hoá, 1998) cũng có Chuông vải (phương phiến đích bố).
Mấy dẫn chứng trên đây xác nhận sự hiện hữu của từ cổ chuông. Tuy nhiên, sau Hoa Tiên độ một hai chục năm, truyện Kiều của Nguyễn Du (1765-1820) lại nói :
Vội về thêm lấy của nhà
Xuyến vàng đôi chiếc, khăn là một vuông
Đầu thế kỉ 19, Chuông đã được vuông thay thế hay là người đời sau đã sửa thơ của Nguyễn Du, đổi chuông thành vuông ?
(Tiếng Việt ngày nay có nhiều từ kép cho thấy dường như có sự chuyển biến ngữ âm (ch > v) : chơi vơi, chênh vênh, chạy vạy, chon von, chót vót, chạng vạng v.v.).







Trở lại truyện Bánh chưng. Chúng ta có thể suy đoán rằng Trần Thế Pháp đã dùng chữ Chưng (Hán) để ghi âm chữ Chuông (nôm) : " Hiệu viết chuông bính " (đặt tên là bánh chuông). Bánh chuông là bánh hình vuông, tượng trưng cho đất.
Người đời sau quen đọc theo chữ Hán cái tên bánh của Lang Liệu. Vì vậy mà bánh chuông bị nhầm thành bánh chưng.

ST

Món ngon trong ngày Tết ở miền Nam


Bánh tét, thịt kho tàu, canh khổ qua, củ kiệu tôm khô... là những món ăn không thể thiếu trong những ngày đầu năm mới của người miền Nam.
Giống phong tục ở nhiều nơi, người miền Nam cũng có những món ăn đặc trưng mang đậm bản sắc văn hóa của mình trong những ngày đầu năm mới. Vào những ngày giáp Tết, bên cạnh việc chuẩn bị sắm sửa, trang hoàng nhà cửa để đón Tết, người dân ở đây không quên chuẩn bị cho gia đình những món ăn truyền thống để làm lễ cúng tổ tiên trong ngày đầu năm, cầu mong may mắn và bình an cho một năm mới.

1. Bánh tét
Nếu như người miền Bắc không thiếu bánh chưng trong ngày tết thì với người miền Nam là bánh tét. Được gói thành đòn dài như người miền Trung, bánh tét miền Nam thường có hai loại nhân mặn và ngọt, được làm bằng đậu, thịt lợn hay nhân chuối, đậu xanh.
Người dân miền Nam bắt đầu gói bánh tét vào khoảng 10 ngày trước tết, bánh dùng để cúng ông bà, làm quà biếu tết. Trong ngày đầu năm, bánh tét là món ăn có mặt trong bữa cơm mừng năm mới, bên cạnh là đĩa tôm khô, củ kiệu ăn kèm.

2. Thịt kho trứng nước dừa
Vào những ngày tết, hầu như các bà, các mẹ đều chuẩn bị cho gia đình mình một nồi thịt kho trứng đầy ắp trong nhà. Vào ngày giáp Tết, các bà nội trợ lo đi chợ từ sáng sớm, tìm mua những phần thịt ba rọi ngon nhất cùng với trứng vịt, nước dừa xiêm để chuẩn bị làm nồi thịt kho cho gia đình.
Chế biến món thịt kho tàu không khó, thịt ba rọi được thái thành từng phần lớn, ướp với các loại gia vị trong khoảng 30 phút. Hột vịt đem luộc chính, bóc bỏ vỏ. Đặt nồi lên bếp, cho nước dừa tươi, nước lạnh vào đun sôi. Sau đó cho thịt vào, khi thịt vừa mềm thì cho trứng vào, nêm lại gia vị, để nhỏ lửa và ninh đến khi thịt thật mềm. Nồi thịt kho được đánh giá là thơm ngon và đẹp mắt khi nước trong nồi có màu vàng cánh gián đặc trưng.

3. Canh khổ qua dồn thịt
Tuy là một món ăn bình dị, nhưng canh khổ qua dồn thịt chứa đựng nhiều yếu tố tâm linh theo suy nghĩ của người miền Nam. Theo truyền thống, người dân ở đây ăn món này đầu năm để cầu mong mọi chuyện không may mắn trong năm cũ sẽ qua đi, một năm mới bình yên, hạnh phúc sẽ đến.
Ngoài là món ăn tâm linh, món canh khổ qua còn rất thích hợp trong thời tiết nắng ấm của miền Nam khi nó có tác dụng thanh nhiệt rất tốt cho sức khỏe.

4. Củ kiệu tôm khô

Giống như dưa món của người miền Trung, củ kiệu ngâm chua ăn kèm tôm khô luôn xuất hiện trên mâm cỗ của người miền Nam ngày tết. Tuy chỉ là một món ăn bình dị nhưng quá trình chuẩn bị khá công phu. Ngay từ giữa tháng chạp, các bà nội trợ đã lo đi chợ tết tìm mua củ kiệu về để muối chua cho gia đình.
Củ kiệu được ngâm với nước tro, làm sạch rễ và lá rồi phơi nắng cho vừa héo là được. Lấy một hũ keo sạch, cho củ kiệu vào, cứ một lớp kiệu một lớp đường rồi đậy kín nắp lại. Trong khoảng 10 ngày là củ kiệu tự lên men, có thể dùng được. Khi ăn món này, người dân miền Nam thường kèm theo một ít tôm khô để món ăn thêm đậm đà, ngon miệng.












Friday, October 10, 2014

Khu Cầu Kho


Khu Cầu Kho trước kia thuộc quận Nhì, Sài Gòn, nay nằm ở quận Một, cũng là một địa danh quen thuộc như Nancy, Mả Lạng, Đa Kao, Vườn Chuối, Bàn Cờ...
Cầu Kho vốn mang ý nghĩa cây cầu nằm cạnh kho chứa lương thực. Kho lúa ngày đó nằm trên nền nhà thờ Cầu Kho ngày nay.
Địa danh này nằm trong bài phú Cổ Gia Định Phong Cảnh Vịnh, do Trương Vĩnh Ký sưu tầm:

Kho Cẩm Thảo chứa thuế vua, mạch nước sữa dân ai dám đá.
Chùa Kim Chương làm tôi Phật, tương chua muối mặn sãi trường chay

Bùi Thụy Đào Nguyên chú thích như sau:
“Kho Cẩm Thảo còn gọi là kho Giản Thảo ở làng Tân Triêm, do chúa Nguyễn sai lập năm 1741. Đây là dãy nhà kho chứa lúa thuế từ Nam Kỳ lục tỉnh chở lên nộp cho triều đình. Trên bản đồ Trần Văn Học vẽ năm 1815, nó được vẽ rõ rệt (hình vuông, có sông rạch bao quanh). Vị trí kho nay là nhà thờ Chợ Kho. Mạch nước sữa dân, ý nói số lúa này dành để phục vụ cho dân cho nước.
Chùa Kim Chương hay Kim Chung tự. Chùa này lại xây trên một nền chùa Chân Lạp đã có trước đời Gia Long. Theo Trương Vĩnh Ký thì chúa Nguyễn Phúc Thuần và chúa Nguyễn Phúc Dương đều bị quân Tây Sơn hành quyết tại đây lối năm 1777. Sau khi đại đồn Chí Hòa thất thủ (1861), chùa Kim Chương đã được tháo dỡ đem về xã Mỹ Thiện (nay là xã Thiện Trí, huyện Cái Bè, tỉnhTiền Giang)”.

Khu Cầu Kho nhìn ra rạch Bến Nghé. Con rạch này một đầu đổ ra sông Sài Gòn để ra biển, đầu kia chảy xuống kênh Tàu Hủ, kênh Đôi... tỏa xuống các sông ngòi kênh rạch nên ghe thuyền hàng hóa lưu thông dễ dàng từ dưới miền Tây lên. Mấy chục năm trước, rạch Bến Nghé nước còn trong xanh, tàu thuyền qua lại nườm nượp. Về sau, nhà sàn ngày càng lấn ra khiến con rạch giống như kênh Nhiêu Lộc, kênh Ba Bò... trở nên ô nhiễm nặng nề.
Rạch Bến Nghé có nhiều nhánh mương đâm ngang. Vì thế có những cây cầu nhỏ nằm trên đường Bến Chương Dương bắc ngang qua các nhánh đó như cầu Bà Đô nằm ở ngã ba chợ Nancy bắc qua rạch Bà Đô, cầu Bà Tiềm gần chợ Cầu Kho... Ngày xưa, ghe nhỏ có thể đi trên các nhánh mương rạch này vào sâu trong đất liền. Hai bên dừa nước mọc, lau cỏ um tùm và dưới làn nước trong, cá lội tung tăng. Hàng mấy chục năm nay, nhà cửa mọc lên lấn chiếm, rác rến đổ xuống, các nhánh mương nhỏ bị bồi lấp, cạn dần và cây cầu hòa lẫn vào đường dài, chỉ là đoạn bê tông hơi dốc một chút. Mặc dầu tấm bảng cầu Bà Đô đặt đó nhưng ít ai thấy được mình đang đi trên một cây cầu.
Riêng cầu Bà Tiềm thuộc khu Cầu Kho vẫn tồn tại mặc dù nhìn xuống mương phía bên trong, sau này chỉ là đống rác lưu cữu. Phía ngoài, bờ rạch Bến Nghé ngay dốc cầu là một cây gòn cao xanh tươi. Tới mùa trái chín, lá rụng hết bày ra toàn gòn dài như trái mướp xanh rồi chín vàng treo lủng lẳng đầy cành. Cầu Bà Tiềm chưa biến thành đường hẳn như cầu Bà Đô nhưng cũng không được sửa chữa nên từ nhiều năm trước, người ta đã phải đặt hai chiếc thùng phuy giữa đường để ngăn xe tải nặng đi qua.
Cho đến mấy năm gần đây khi nhà cửa bị giải tỏa để xây xa lộ thì khúc mương cụt hoàn toàn thế bằng cống hộp, mặt mương san bằng thành mảnh sân rộng rãi cạnh trường tiểu học Chương Dương, cầu Bà Tiềm mất luôn, chỉ còn dấu tích là vạt đất cao chạy ngang trước mặt trường. Cùng dãy với trường Chương Dương có kho kiểm lâm sau 75 vẫn dùng chứa cây, gỗ, bán củi thước cho dân chúng mua về đun nấu. Nay là chung cư.
Bến Chương Dương như các “Bến” khác là những con đường cặp theo sông rạch nhưng ít ai nhìn thấy sông nước vì nhà cửa che khuất. Mặt tiền đường phía rạch là các vựa bán vật liệu xây dựng: cát, gạch, xi-măng…, xưởng gỗ chuyên đóng cánh cửa, khung cửa, cầu thang, ván, tủ... và đủ thứ hàng: cửa hàng bán gạo, lò heo quay, hàng nghêu sò ốc hến... Đằng sau dãy nhà mặt tiền đó là nửa nhà sàn tức là nhà xây một nửa trên đất, một nửa dưới sông. Tiếp theo mới là nhà sàn thực sự bắc trên cọc tua tủa. Không phải một lớp mà là nhiều lớp nhà sàn nằm song song có lối đi bắc ván ngoằn ngoèo như hẻm hẹp để rẽ vào các nhà. Nhà sàn thường được làm bởi vật liệu nhẹ, đơn sơ. Mái lợp tôn, cả vách và nền đều là ván nên Bà Hỏa thường xuyên rình rập. Cư dân nhà sàn than thở đồ vật lặt vặt cứ lọt sàn rớt xuống sông hoài. Nhà sàn phát triển theo dân số gia tăng. Rác rưởi, chất thải trong mọi sinh hoạt thường ngày đều đổ thẳng xuống sông khiến cái bể chứa rác tự nhiên ấy cũng chịu hết nổi. Mặc dù vẫn thủy triều lên xuống nhưng nước rạch dần dần trở nên đen ngòm và đặc sệt đưa mùi hôi khó chịu.
Dọc rạch Bến Nghé có mấy bến đò ngang. Phía bờ sông thuộc Cầu Kho trước kia cũng có một bến đò để qua lại quận Tư. Đường xuống bến nhỏ hẹp như một con hẻm vì phải đi xuyên qua dãy nhà mặt tiền, qua lớp nhà sàn. Nếu không phải dân địa phương hoặc dân cần qua sông thì người đi đường, hiếm ai biết có một bến đò nằm ở đó. Hết quãng đường đất mấp mô lầy lội vào mùa mưa đến mấy tấm ván bắc xuôi xuống mép nước. Nhà sàn ăn lấn ra rạch nhiều quá nên đò trôi chưa được mấy nhát chèo đẩy đã quay mũi lại. Lòng rạch bồi lắng nếu gặp hôm nước cạn thì chỉ xoay mũi đò là vừa bắc cầu leo lên bờ rồi. Cả người đi bộ, cả xe đạp, xe máy của dân chúng hai bên bờ Chương Dương và Vân Đồn đã bao nhiêu năm lưu thông trên những chuyến đò tiện lợi ấy.
Dọc theo Bến Chương Dương có nhiều cảng. Ngay ngã ba Nancy là cảng Thơm. Còn ở đây, gần bến đò là cảng Mía. Mỗi khi con nước lên, mía xuống cảng tạo nên khung cảnh đông đúc, rộn rịp. Để lên hàng, nhiều ghe neo mấy ngày liền san sát dưới sông, các thanh niên cởi trần vác từng bó mía dài chuyển lên xe tải phân đi các nơi. Khi xe chưa kịp đến, mía chất cao bên đường. Người khuân vác, kẻ đẩy xe cút kít ồn ào...
Cảng bao giờ cũng gắn liền với chợ. Vì thế đối diện với cảng Thơm là chợ Nancy, còn đối diện với cảng Mía ở đây là chợ Cầu Kho. Đây được tính là ngôi chợ khá lớn vì có nhà lồng hẳn hoi. Xửa xưa, chợ chỉ là mái lá lợp trên cột là những thân cây tràm cong queo trống trải như mọi cảnh chợ quê. Thời Pháp thuộc, xe ngựa chạy lóc cóc. Ông xà ích ghé chợ uống ly cà phê xây-chừng...
Rồi chợ dần dần được sửa sang đẹp hơn, tường xây, mái ngói... Ghe thuyền neo dưới bến, dân thương hồ lên bờ ghé chợ chơi. Vì thế chợ lúc nào cũng tấp nập. Chung quanh chợ là các quán ăn uống. Từ chiều tối, bàn rượu bày ra trên vỉa hè, đèn hột vịt leo lét suốt đêm trên những chiếc bàn gỗ thấp bé, những chiếc ghế gỗ xiêu vẹo túm tụm cho bữa nhậu bình dân của các tay giang hồ.
Tuy nhiên, khi chợ khang trang lên, ngoài cổng là mấy tiệm vàng sáng rực, tiệm chụp hình, tiệm may vest... thì khách đi chợ lại giảm nhiều. Chợ Cầu Kho sửa chữa mấy lần. Lần cuối vào những năm 90, chợ được xây vững chắc. Tầng trệt là chợ, trên lầu là nhà chung cư. Sau này chỉ số ít người ở ngay sát cạnh mới đi chợ Cầu Kho, các bà nội trợ tỏa ra chợ Cô Giang, chợ Thái Bình, chợ Sở Thùng hoặc chợ chồm hổm họp trong hẻm gần xóm Chùa tức chùa Thiên Phước, cũng nằm trong khu vực Cầu Kho. Lại thêm một loạt siêu thị mọc ra gần đấy ở Cống Quỳnh, Nguyễn Trãi, khu nhà bờ sông bị giải tỏa trắng... khiến chợ Cầu Kho càng đìu hiu. Trong nhà lồng tối om, rộng rinh toàn sạp trống.
Bây giờ gọi là chợ Cầu Kho chỉ còn sót một xe đẩy bày vài miếng thịt heo, một hàng rau. Mặt tiền tầng trệt quây tường kín nên vài người chiếm vỉa hè bán thức ăn. Ban ngày là hàng bánh cuốn, cà phê, uốn tóc... Đặc biệt buổi tối có hàng mì và hủ tíu chỉ là món chay bình dân mà ngày càng nổi tiếng. Vào những tối rằm và mùng một, xe gắn máy của khách ăn từ khắp nơi kéo đến đậu chật cứng, bàn ăn bày dài dài dưới lòng đường vì đâu còn chỗ ngồi trên lề. May đây là cuối đường khá vắng nên hàng ăn mặc sức bành trướng. Mọi sinh hoạt buôn bán, ăn uống đều bung ra hết ngoài lề đường quanh chợ thật vui vẻ.
Những người buôn bán cũ đã chuyển nghề khác nhưng vẫn ráng chiếm chỗ. Sau lưng chợ là dãy phòng hộp quẹt chừng vài ba mét vuông với lối đi rất hẹp nhưng tập hợp mấy gia đình ba đời làm đủ nghề, cùng sống trong một không gian không thể chật hẹp hơn.
Chợ Cầu Kho đi xuống một chút về phía đại lộ Trần Hưng Đạo là nhà thờ Cầu Kho. Đối diện là trường tiểu học Thanh Trí sau này thành trường cấp II rồi giải tán.
Kho đã mất dấu từ lâu nhưng Cầu Kho quá nổi tiếng, được định vị trí cho cả một khu vực rộng lớn đến nỗi băng qua đường Trần Hưng Đạo sang bên kia đường là trường tiểu học cũng được đặt tên Cầu Kho, về sau đổi thành trường Trần Hưng Đạo. Hồi đó nữ sinh tiểu học mặc đồng phục nguyên bộ quần áo vải trắng. Đó là trường tiểu học lớn nhất khu vực này. Như mọi ngôi trường xưa được xây cất khi đất đai chưa chật chội, kiến trúc giống trường Nguyễn Thái Học, Phan văn Trị... đều có sân rộng rãi với tàng cây cổ thụ. Một trong sân, một ngoài trường tỏa bóng mát xanh mướt.
Trường Cầu Kho gần Sở Cứu Hỏa có nhiều con em của nhân viên trong đó theo học nên lúc trước, vào cuối ngày, Sở Cứu Hỏa thường cho xe bồn qua phun nước rửa sân. Bởi vậy sân trường bao giờ cũng rất sạch. Giờ Thể dục, giờ Nhạc hay chơi đùa dưới sân, học sinh có thể ngồi xệp xuống đất mà không sợ dơ.
Gần đó cũng ngay mặt tiền Trần Hưng Đạo là nhà của nghệ sĩ cải lương Thanh Nga từng có lúc mở quán ăn Phà Ca. Giờ tan học, lũ học sinh nhỏ thường đến lấp ló đợi cô đào giải Thanh Tâm hiện ra để chạy tới xin hình mà chẳng bao giờ gặp.
Bên này đường đối diện với Sở Cứu Hỏa là hẻm trại cưa vì hai căn nhà đầu hẻm là xưởng gỗ, trại cưa. Trại An Quốc Cường giờ là nhà hàng Food Center thường được mọi người gọi Nhà hàng Đen, do mặt tiền ốp toàn đá đen. Còn trại kia không hiểu sao vẫn còn khi các nhà khu vực này đều xây mới thành ngân hàng, văn phòng công ty, cửa tiệm... sáng sủa phù hợp với vị trí mặt tiền của đại lộ chính hơn là một trại cưa cũ kỹ.
Con hẻm này chạy thông ra Bến Chương Dương, trong đó có chùa Thiên Phước và miếu Ngũ Vị. Hiện nay, ngôi miếu là một căn nhà nhỏ lâu ngày không được sửa chữa nên hư hỏng trong khi trang thờ Ngũ Vị náu trong sân chùa không biết ngày nào trở về. Mỗi năm tới ngày cúng Bà, tại nơi trú tạm ấy, lễ hội vẫn được dân trong xóm tổ chức cúng bái long trọng, linh đình.
Khu vực này cũng là nơi từng đặt tòa soạn của nhật báo Tia Sáng, The Sài Gòn Post..., là nơi cư ngụ của một số nhà văn như Tam Lang Vũ Đình Chí, tác giả phóng sự nổi tiếng Tôi Kéo Xe, nhà văn Sỹ Trung viết tiểu thuyết tâm lý tình cảm xã hội sau này sống ở Pháp. Nhà văn Viên Phong trong nhóm Hàn Thuyên đã qua đời tại Mỹ, ở cùng ngõ với thầy Nguyễn Văn Phú, hiệu trưởng trường Hưng Đạo (đường Cống Quỳnh) hiện sống ở Canada và em trai là ông Nguyễn Trọng Nho, chủ nhà xuất bản Đường Sáng...
Khu Cầu Kho bây giờ thay đổi khó nhận ra. Các chung cư, ngân hàng, nhà cao tầng... mọc lên mang vẻ mặt đô thị mới mẻ. Chợ Cầu Kho trong tương lai không biết sẽ làm gì, trung tâm thương mại chăng, hay chung cư phức hợp... Ngoại trừ nhà thờ Cầu Kho thì địa danh này chỉ còn nằm ở tên phường. Nhà sàn giải tỏa trắng trả lại bờ sông phẳng phiu kè đá. Con đường dọc theo rạch biến thành đường cao tốc chạy dài từ Thủ Thiêm xuống tận Long An. Nước rạch đã bớt đen, những con cá nhỏ bắt đầu xuất hiện lại.
Nào cảng, nào bến đò... đã lui vào nằm trong Sử cùng với Kho, với Cầu... của Sài Gòn trăm năm.... 


Anh Nguyễn 

Tân Định & Đakao



Chợ Tân Định

Cho đến bây giờ, dù đã xa Tân Định và Đa Kao nhiều năm, nhưng trong tôi hai cái tên Tân Định và Đa Kao lúc nào cũng là một nổi nhớ khôn nguôi. Chúng cứ thôi thúc tôi hoài. Đã bao năm qua, tôi muốn tìm về chốn này, để sống lại với kỷ niệm thuở học trò, mà tình yêu khi đó, chỉ biết, đôi mắt nhìn nhau cũng đủ rồi. Tôi cứ hẹn đi, hẹn lại, nhưng vẫn chưa bao giờ thực hiện được ước mơ này. Rồi một dịp tình cờ đưa đến.  Tôi đã có hai tuần lễ đi qua, đi lại trên những con đường kỷ niệm của Tân Định và Đa Kao. Điều làm tôi rất đỗi ngạc nhiên và thích thú là tên nhiều con đường trong khu vực này vẫn như cũ.
Thật vậy, sau 30 tháng 04, năm 1975. Một số tên đường của thành phố Sài Gòn thân yêu đã bị đổi bằng những cái tên xa lạ. Nay được thấy lại các tên đường ở khu Tân Định và Đa Kao không bị thay đổi nhiều, trong lòng tôi bỗng nhiên dâng lên một sự xúc động mãnh liệt và niềm sung sướng vô cùng.
Xin mời các bạn cùng tôi tìm về những con đường kỷ niệm của khu Tân Định và Đa Kao với những bồi hồi, rung động khó quên của thời niên thiếu và không bao giờ phôi pha, dù năm tháng có qua đi.
Trước hết, xin bắt đầu là Cầu Kiệu với con đường Hai Bà Trưng đi về phía Sài Gòn. Khoảng đường này bên tay phải có hẻm vựa gạo, bác sĩ khám mắt tên Kính, tiệm bán bông cườm, thuốc cam Hàng Bạc và tiệm cà phê Hải Nàm. Phía bên phải có hẻm bán chó, tiệm trà Phật Tổ và tiệm bán xe đạp Đoàn Văn Thẩm.
Quẹo trái ở ngả ba là đường Trần Quang Khải. Phía tay trái là con đường nhỏ dẫn vô hẻm có tiệm bánh cuốn Thanh Trì ngay đầu ngỏ, đối diện là Hảng Sáo Công Ty, rồi tới trường Việt Nam Học Đường và trường Văn Lang số 51 Trần Quí Khoách do thầy Ngô Duy Cầu làm Hiệu Trưởng. Thầy mất đúng ngày 30 tháng 04, năm 1975. Đối diện trường Văn Lang là Cư Xá Kiến Ốc Cục Tân Định, dành cho công chức. Đi vào phía trong là chùa Vạn Thọ và một số chùa nhỏ khác. Phía tay phải là quán cơm cây Điệp, kế bên là hảng gạch bông Vân Sơn. Nhìn sang bên đường là trường Trung Học Tân Thạnh của Thầy Phan Út. Trước khi vào cổng trường, phải đi ngang bảo sanh viện Ngô Liêng. Bảo sanh viện này mang luôn tên bà.
Đi tiếp khoảng hai trăm thước sẽ gặp một ngả tư. Đường Bà Lê Chân bên tay phải. Ngay góc đường bà Lê Chân là quán cơm tấm của vợ chồng con trai nghệ sĩ Bảy Nhiêu. Đối diện là đình Phú Hoà, nơi các đoàn hát bộ và cải lương tập dượt. Nằm trên đường Bà Lê Chân phía bên trái có nhà in Bùi Văn Tạ, bảo sanh viện Hà Đông Hà. Trước mặt có con đường mang tên Mã Lộ. Con đường này chạy ngang phía sau chợ Tân Định. Phía đầu đường Bà Lê Chân là ngả ba Hai Bà Trưng và Bà Lê Chân. Nằm ngay góc là Y Viện Tân Định.
Từ đình Phú Hoà nhìn sang bên kia đường là đường Trần Nhật Duật. Xe chè Huỳnh Thị Ngà nổi tiếng một thời, nằm ngay góc ngả tư đường Trần Quang Khải và Trần Nhật Duật. Đường này chạy dài tới khu nông cơ cũ. Trên đường Trần Nhật Duật có bốn con đường nhỏ đâm ngang qua. Thứ tự như sau: Đặng Dung, Đặng Tất, Trần Quí Khoách và Trần Khánh Dư. Riêng, hai đường Đặng Dung và Trần Khánh Dư thì chạy dài được đến đường Trần Khắc Chân, còn gọi là xóm Cầu Mới. Trên đường Trần Nhật Duật, hẻm số 21 có tiệm ảnh Nguyễn Kỳ nổi tiếng một thời trong giớí học sinh, thích chụp hình chân dung, nhà số 10 là trường Huỳnh Thị Ngà. Bà Huỳnh Thị Ngà là một phụ nữ giỏi và đảm lược. Bà biết chèo chống và điều hành ngôi trường Huỳnh Thị Ngà, mà kế bên có nhiều trường trung học tư thục khác, lúc nào cũng sẳn sàng cạnh tranh với trường của bà. Nhờ thế trường của bà mới có thể tồn tại hơn hai mươi năm. Bà mất khoảng cuối năm 1992 tại tiễu bang Virginia (Hoa Kỳ). Đối diện trường Huỳnh Thị Ngà, xéo về đường Đặng Dung là nhà gíáo sư khiêu vũ, phía trước nhà có cây me to. Cách đó vài căn là nhà Giáo Sư Pháp Văn Huỳnh Văn Mĩ. Thầy Mĩ nổi tiếng về dạy Pháp Văn và là một trong những võ sư sáng lập môn phái Hàn Bái Đường. Không nghe nói về vợ thầy, chỉ thấy thầy đi chợ môt mình, hai tay xách cái gà mên. 

Posted Image
Bưu điện Tân Định

Bây giờ trở ngược ra đường Trần Quang Khải đi về phía Đa Kao. Trước khi đến một ngả năm. Phía bên phải là phòng nha khoa của một đôi vợ chồng. Vợ là Nha Sĩ tên Hạnh. Chồng là Không Quân Thiếu Tá Nha Sĩ Dương Quảng Định (Trung Tâm Giám Định Y Khoa Không Quân). Đi thêm khoảng ba mươi thước gặp một depot rác nhỏ. Đối diện là chỗ cho thuê sách, tiểu thuyết và truyện hiếm hiệp Đức Hưng, kế bên là tiệm hàn gió đá Sáu An. Cách đó vài căn là nơi chuyên sản xuất xích lô đạp và xe ba bánh có tên Ngọc Quế.
Khi đến ngả năm, bên tay trái là đường Trần Khắc Chân, nhìn xéo về phia tay phải là đường Nguyễn Phi Khanh. Căn nhà nằm ngay góc đường của ông Bùi Ngọc Phương. Ông tự phong cho mình là vua dầu hỏa Việt Nam và dự định ứng cử Tổng Thống VNCH. Nếu đi ngược chiều trên đường Nguyễn Phi Khanh, ngả ba đầu tiên là đường Huyền Quang, có đình Sơn Trà. Đường Huyền Quang mang tên một vị sư. Con đường dài khoảng hai mươi thước, đi hết đường Huyền Quang, quẹo trái lá Chả cá Lã Vọng. Ngả ba kế tiếp là Lý Văn Phức, có một depot rác rất lớn, nơi mà các công nhân vệ sinh đưa rác về đây, trước khi các xe lớn đến chở đi tái chế và phế thải. Cuối đường là quán cà phê bà Chi, mà các bài viết về cà phê Sài gòn đều nhắc đến. Quẹo trái gặp rạp hát Casino Đa Kao, tiệm may Cao Minh và tiệm thạch chè Hiển Khánh. Đối diên là nhà hàng Pháp tên Casino, tiệm bán quân trang Quế Anh và kế bên là tiệm Phúc chuyên làm con dấu, thêu cờ và huy hiệu. Nếu quẹo phải sẽ gặp Đền Thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo.
Đoạn đường Trần Quang Khải từ đây ra đến đường Đinh Tiên Hoàng tuy không dài lắm, nhưng có rất nhiều cửa hiệu buôn bán. Phía bên phải, ta thấy có Pharmacy Duyệt, rồi đến bảo sanh viện Chung Nam Quế. Nơi đây các bà bầu khu Đakao và Gia Dịnh thường đến để khai hoa nở nhụy. Nhà kế bên là nhà của bà thầy bói mâp, chuyên môn coi bói bài, tiếp đó có hai tiệm bán phụ tùng và sửa xe Honda, rồi cà phê Ngọc Dung số 77 Trần Quang Khải, của hai chị em tên Ngọc và tên Dung. Đi thêm một chút nửa sẽ gặp Đình Nam Chơn. Trước đình có thờ hình ông Cọp. Bên trái cổng vào trong sân đình có cây Đa to, có lẽ đã trên trăm uổi. Thêm vài bước nửa cũng có một Phật đường nhỏ, thuộc Giáo Hội Phật Đường Nam Tông. Được gọi tên la Minh Sư Đạo Quang Nam Phật Đường. Kế bên là tiệm vàng Bảo Thành, cũng nổi tiếng về Bánh Trung Thu, giò lụa, giò thủ và bánh mứt. Trước 1975, bà Bảo Thành là chủ hầu các bải giử hai bánh lớn nhất Sàigòn như: Trường Đại học Luật khoa ở đường Duy Tân, Nha Xổ số Kiến Thiết ở đại lộ Thống Nhất, rạp hát Đại Nam trên đường Trần Hưng Đạo, và dọc theo hai bên đường Lê Lợi… Cách một căn là tiệm cơm Tàu có tên Dân Thiên, với các món mì xào dòn và cơm chiên Dương Châu tuyệt vời.
Tiếp tục phía bên trái. Đầu tiên là chi cuôc cảnh sát Tân Định. Kế bên là đình Công Thành Ban, chuyên trình diễn hát bộ. Trước đình cũng có thờ một ông cọp, kế bên là một ngỏ hẻm, đi ra được đường Trần Khắc Chân. Sau đó sẽ đến một dảy phố, có tiệm quay Ronéo Lửa Hồng, nơi đây quay ronéo và photocopy bài vở cho các học trò và thầy cô giáo. Ngoài ra cũng bán nhạc quay roneo sẳn, giá rất bình dân. Cách đó vài căn là một tiệm hòm. Có tiệm may Của, rồi đến nhà bà con với ông chủ rạp hát Văn Hoa. Nổi tiếng ở đoạn này là tiệm cầm đồ bình dân có tên là Kim Ngân. Bà chủ lúc nào cũng trang điểm lộng lẫy như các cô đào cải lương Thanh Nga hay Bạch Tuyết sắp lên sân khấu trình diễn. Nơi đây lúc nào cũng đông khách vì tiệm cho cầm và chuộc đồ với giá tương đối dễ thở và thủ tục thì đơn giản hơn so các nơi khác. Cách khoảng mười căn nhà, bên trái có một con hẻm lớn, nổi tiếng nhất vùng Tân Định – Đa Kao. Đó là hẻm xóm Vạn Chài. Đây là địa điểm quy tụ anh hùng hào kiệt tứ xứ. Mỗi lần có hành quân cảnh sát để bắt thanh niên trốn quân dịch thì xe cộ, súng ống rầm rộ, ca nô, thuyền nhỏ chạy dài dọc theo sông cầu Bông, đèn pin chiếu pha sáng cả một vùng. Cuối cùng kết quả chẳng đi đến đâu, vì thanh niên trốn quân dịch đã nhảy xuống sông, lặn qua bên phía Gia Định, hoặc trốn trong các con hẻm sâu, tối tăm, chằng chịt. Lực lượng kiểm soát cũng không muốn vào chỗ này, vì không an toàn cho lắm. Đặc biệt, trong hẻm có một trường trung tiểu học tư thục mang tên Văn Hiến do Thầy Phan Ngô làm Hiệu Trưởng. Thầy cũng từng ra ứng cử và đắc cử Nghị viên thành phố Sài gòn.
Ra khỏi hẻm, quẹo trái là ngay rạp hát Văn Hoa. Rạp hát này đã từng một thời là một rạp hát sang trọng của Saigon vì có trang bị máy lạnh, màn ảnh rộng và giá vé vào cửa cũng tương đối bình dân. Rạp Văn Hoa chiếu đủ các loại phim. Những lúc chiếu phim mới và hấp dẫn, bà con sắp hàng rồng rắn, kéo dài tới ngỏ xóm Vạn Chài. Khán giả nào không muốn sắp hàng, không muốn chen lấn đổ mồ hôi, để bị rách quần, rách áo hoặc bị rạch bóp, thì có thể mua chợ đen, đôi khi phải trả gấp đôi. Cũng nên nói thêm ở đây. Cạnh bên rạp hát Văn Hoa là một quán cà phê cũng đã đi vào lịch sử của cà phê Saigon. Đó là cà phê Văn Hoa. Quán được trang bị dàn âm thanh tối tân, nhạc ngoại quốc hấp dẫn luôn luôn mới nhất, chỗ ngồi thanh lịch, vị trí thuận lợi và do hai chị em ruột là bà con với ông bà chủ rạp Văn Hoa đứng bán. Cô chị có tên TBD và cô em có tên TBH. Hai chị em đều là nữ sinh trường trung học Huỳnh Thị Ngà. Lúc nào đi học, cả hai cô đều mặc đồ đầm rất xinh xắn. Trông giống búp bê không tình yêu. Nghe đâu cũng có khối anh đến uống cà phê thường xuyên mỗi ngày, trong số đó có anh là ca sĩ một ban kích động nhạc nổi tiếng về bài hát Sunday Morning. Ngày nào anh ta cũng đến quán ngồi đồng, vừa thuởng thức cà phê, vừa trồng cây si cô em TBH. Gia đình Cô TBD hiện ở Montréal, còn gia dình cô TBH từ Montréal chuyển về Pleasanton (California.) vì phu quân cô có công việc làm thích hợp ở đây.
Đoạn đường còn lại, phải nhắc đến một quán cơm xã hội, chuyên phục vụ cho giới bà con lao động, xe ba gác, xe xích lô, công tư chức và học sinh, sinh viên nghèo. Giá rất bình dân, chỉ duy nhất năm đồng. Thức ăn gồm ba món, thay đổi mỗi ngày. Cơm ăn thoải mái, ăn cho đến khi nào no thì thôi. Ngoài ra, còn được tặng thêm một trái chuối tráng miệng và ly trà thơm, nóng bốc khói. Sau đó phải kể thêm hai tiệm bán xi măng, gạch, cát và đá cha truyền con nối là Tấn Phát và Tâm Long. Nay chỉ còn tiệm Tâm Long tiếp tục, địa chỉ số 8 Trần Quang Khải, có lẽ cửa hàng đã hơn nửa thế kỹ. Một chút nửa thì bỏ sót tiệm may áo dài tương đối nổi tiếng là Phương Luân và hiệu ảnh Ngọc Chương ở kế bên. Hết đường Trần Quang Khải thì gặp đường Đinh Tiên Hoàng. Quẹo trái sẽ găp một quán bán thịt gà, thịt vịt và thịt heo quay. Cạnh đó là một tiệm chuyên sửa xe vespa và Lambretta. Nhìn sang bên kia đường là tiệm may áo dài Thanh Châu. Tiệm mang tên người con gái lớn nhất. Tiệm may Thanh Châu rất nồi tiếng, chuyên may áo dài cho các ca sĩ và áo cưới cô dâu. Hiện nay tiệm may Thanh Châu vẫn còn và có rất nhiều khách đến may mỗi ngày. Kế bên là tiệm bán và đóng giầy Đông Hưng.
Bên kia đường Trần Quang Khải là đường Nguyễn Huy Tự. Phía tay phải có chợ Đa Kao. Trước khi tới chợ Đa Kao, sẽ gặp một gánh chè chỉ bán đậu đen. Bà bán chè, người miền bắc di cư. Bà chỉ bán vào buổi chiều. Chè đậu đen bà nấu, hạt rất dẻo, hương vị ngọt đậm đà. Thú vị nhất là ngồi chồm hỗm ăn chè nóng dưới cơn mưa lất phất của Sài Gòn, vì không có ghế cho khách. Một con đường chạy ngang chợ Đa Kao là đường Trương Hán Siêu. Bên trong có đền thờ nhà cách mạng Tây Hồ Phan Chu Trinh và quán bánh cuốn tráng hơi, mang tên Tây Hồ. Bà chủ bánh cuốn có tên là bà Cà. Bà khởi nghiệp năm 1960, bằng một cái quán xập xệ, một ít bàn ghế thấp lè tè và mấy tấm bạt cũ để che mưa. Bên phải có Tín Nghĩa Ngân Hàng. Khi chiều đến, có quán cháo lòng, mà bà chủ rất khó tánh. Bà luôn luôn ưu tiên bán trước cho nam gìới, còn nữ gìới thì bà cho đợi mút chỉ cà tha. Cô hay bà nào không chờ được thì đi kiếm chỗ khác. Nếu thắc mắc, khiếu nại thì bà sẽ từ chối, không bán.



Rạp Casino Đakao

Đường Nguyễn Huy Tự rất ngắn, khoảng chừng ba mươi thước. Chấm dứt khi đụng đường Nguyễn Văn Giai. Chạy thẳng là Viện Nhu Đạo Quang Trung của Thượng Toạ Thích Tâm Giác. Nguyên Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo. Đối diện với Viện Nhu Đạo Quang Trung là một ngôi chùa lâu đời của người Hoa, mang tên chùa Ngọc Hoàng. Đặc biệt, trong chùa có một cái hồ lớn và sâu. Nhà chùa thả rất nhiều rùa, có những con sống đã vài chục năm trở lên.
Đường Nguyễn Huy Tự, quẹo trái là đường Bùi Hữu Nghĩa. Có một cây cầu sắt cũ. Nếu quẹo phải sẽ găp đường Nguyễn Văn Giai. Đi hết đường Nguyễn Văn Giai sẽ gặp đường Đinh Tiên Hoàng, nhìn sang phía bên kia đường là đường Huỳnh Khương Ninh. Bên trái là rạp hát Asam, nay đã xây thành chung cư và tiệm thuốc tây Lịch Cường. Pharmacy mang tên của Dược Sĩ Tống Lịch Cường. Đầu đường Huỳnh Khương Ninh, có xe bánh mì Bảy Quan với bánh mì thịt dăm bông và ba tê rất độc đáo. Trên con đường này còn có trường trung học Huỳnh Khương Ninh. Đi hết đường Huỳnh Khương Ninh sẽ gặp đường Phan Liêm. Đường chạy dài, dọc theo bên hông Nghĩa Trang Mạc Đĩnh Chi. Trên đường Đinh Tiên Hoàng giữa khoảng đường Phan Đình Phùng và Phan Thanh Giản có hai nhà hàng Pháp nổi tiếng là Chez Albert và La Cigale. Ngoài ra cũng phải kể thêm hai quán cà phê đã đi vào gia phà cà phê Saigon trước năm 1975. Quán thứ nhất là cà phê Hân mà tất cả mọi thứ đếu làm bằng inox từ phin, muỗng, tách đựng đưòng, đựng sữa và quán thứ hai là cà phê Duyên Anh. Quán mang tên nhà văn Duyên Anh, nhưng hoàn toàn không dính dáng đến nhà văn này. Cô bé ngồi tính tiền tên Q. có nụ cười xinh xinh, đôi mắt tròn, đen láy và tóc dài thắt bím rất dễ thương. Cô làm cho bao nhiêu đấng anh hùng mê mệt. Cô cũng còn là đề tài cho các chàng thi sĩ tài tử đến vừa thưởng thức cà phê, vừa làm thơ sầu mộng.
Khu Đa Kao có thể kể thêm những con đường tên vẫn như cũ là: đường Nguyễn Bỉnh Khiêm với hai trường trung học công lập Trưng Vương, Võ Trường Toàn và hồ bơi Nguyễn Bĩnh Khiêm, đường Nguyễn Thành Ý, đường Phan Kế Bính có Hội Văn Hoá Bình Dân do ông Huỳnh Văn Lang Tổng Giám Đốc Viện Hối Đoái làm Chủ Tịch, đường Mạc Đĩnh Chi với Billards Trường Cang, nhà hàng Trường Cang, Hội Việt Mỹ và Ty Cảnh sát Quận 1, đường Trần Cao Vân, Phan Tôn, Phan Ngữ, đường Phùng Khắc Khoan với tư gia Đại Sứ Hoa Kỳ. Đường này cũng là một con đường đẹp, có nhiều lá me bay của Saigon.
Cuối cùng trở về khu Tân Định. Xin chỉ ghi ra những con đường không bị đổi tên là: Nguyễn Văn Mai nối hai đầu đường Hai Bà Trưng và đường Huỳnh Tịnh Của. Một đường nữa là Đinh Công Tráng, với món bánh xèo nổi tiếng, trường (Tân Thịnh, Les Lauries, Văn Minh) và tiệm chụp hình Duy Hy. Ngay góc Hai Bà Trưng và Đinh Công Tráng là tiệm thuốc Kính Tiên. Phía đối diện là trường Thiên Phước, nhà thờ Tân Định và cách nhà thờ Tân Định khoảng hơn mười thước là cà phê Thu Hương danh tiếng một thời. Ngoài ra, cũng xin kể thêm đường Pasteur. Nơi đây có nhiều tiệm phở, có quán cà phê Hồng và có viện Pasteur, chiếm một chu vi rất rộng, có bốn con đường bao quanh, với những cây cổ thụ to đến nổi năm, sáu người ôm vẫn không xuể. Ngay ngã ba Nguyễn Đình Chiểu và Pasteur, có một cái mả đá rất lớn được xây bằng đá ong đã bị giải tỏa, nhìn đối diện là trường ngõ hẻm vô trường Anh Văn Khải Minh. Xin phép được dừng ở đây. Hy vọng các bạn đã tìm lại được một chút hương xưa của ngày tháng cũ năm nào..


Trần Đình Phuớc

Lang thang đường Tôn Đản

Ai chưa sống ở đường Tôn Đản, mỗi khi nghe nói tới hai chữ Tôn Đản liền nghĩ ngay tới “du đảng” hoặc đại ca Năm Cam, hoặc một vùng đất dữ dằn của các tay anh chị giang hồ bến tàu. Nói vậy không phải vậy, dù hơn nửa thế kỷ trước Năm Cam thành danh ngay đầu hẻm 148 đường Tôn Đản khi đâm chết tay du đảng cùng xóm tên Lót. Đường Tôn Đản còn có những cái đáng nhớ khác.

Sau đây là chuyện kể về một con đường của một Quận nghèo nhất đất "Sài Thành hoa lệ". Thời gian trước và sau 1955, cách đây hơn nửa trăm năm, tức một phần hai thế kỷ,nên chuyện rất xa xưa, xưa như chuyện tình Mộng Cầm-Hàn MặcTử.

Đường Tôn Đản là con đường chạy xuyên qua một vùng dân cư lao động của vùng Khánh Hội, Quận Tư, Sài Gòn. Đầu đường, nối với đường Trình Minh Thế tạo thành một ngả ba xe cộ lúc nào cũng đông đúc. Cuối đường, gặp đường Tôn Thất Thuyết chạy dọc theo Kinh Tẻ. Bên kia Kinh Tẻ là vùng Tân Qui Đông, thuộc quận Nhà Bè.


đường nầy thời Pháp thuộc có tên “Route de Cần Giuộc”, là một con đường đất ngoại ô Sài Gòn. Về sau được mở rộng, trải đá tráng nhựa phẳng phiu, Tây đặt lại tên đường Matelot Manuel, ban đêm hai hàng cột đèn khí cháy sáng choang, tỏ rõ cái văn minh của kẻ đi cướp nước.

Khoảng năm 1956, 1957 không nhớ đích xác,chính quyền Việt Nam Cộng Hoà sau khi đã thu hồi chủ quyền quốc gia từ tay người Pháp, đặt lại tất cả tên đường trong đô thành Sài Gòn-Chợ Lớn. Matelot Manuel đổi thành đườngTôn Đản từ đó. Bên các quận khác, mấy ông Tây Thực dân như De Lattre De Tassigny, Bonard, Colonel Grimaud, Jauréguiberry, Kitchener, Chanson và nhiều nữa, được mời "xuống tàu về nước".

Tôn Đản là ai? Đó là vị phó tướng của tướng quân Lý Thường Kiệt, đời vua Lý Nhân Tông (1072-1127). Tôn Đản tên thật Nùng Tông Đản, gọi tắt Tông Đản, người dân tộc Nùng. Vì kỵ húy tên vua Thiệu Trị là Miên Tông, nên sử triều Nguyễn viết thành Tôn Đản thay vì Tông Đản.

“ Năm Ất mão (1075) Lý Thường Kiệt đem quân sang vây đánh Khâm Châu và Liêm Châu (thuộc tỉnh Quảng Đông). Đạo quân của Tôn Đản đánh Ung Châu (tức là thành Nam Ninh, thuộc tỉnh Quảng Tây), quan Đô Giám Quảng Tây là Trương Thủ Tiết đem binh lại cứu Ung Châu, bị Lý Thường Kiệt đón đánh ở Côn Lôn Quan (gần Nam Ninh) chém chết Trương Thủ Tiết ở trận tiền. Tôn Đản vây thành Ung Châu hơn 40 ngày, quan tri châu là Tô Đạm kiên cố giữ mãi. Đến khi quân nhà Lý hạ được thành, thì Tô Đạm bắt người nhà tất cả 36 người chết trước, rồi tự đốt mà chết”.

Từ đầu ngả ba Tôn Đản- Trình Minh Thế (tức đường Jean Eudel cũ), dân nghèo Quận Tư đều biết đến hai tiệm cầm đồ bình dân, khách ra vô nườm nượp. Đầu đường bên tay phải là tiệm mang tên Huỳnh Thị Dậu, nghe tên cũng đoán biết đó là tên chủ nhân. Đầu đường bên tay trái có tiệm Hoà Thành, chiếm hai mặt tiền, một mặt tiền ngó ra đường Trình Minh Thế đón khách từ kho 5, kho 11 lên; một mặt ngó ra đường Tôn Đản. Ai đã từng là dân phu khuân vác bến tàu, chạy xích lô máy, xích lô đạp, xe ba bánh, đánh xe ngựa, học trò nghèo hay làm tư chức miệt Khánh Hội và bên kia cầu Tân Thuận, cầu Hàn mà không là thân chủ của Hoà Thành và Huỳnh Thị Dậu?

Tiệm cầm đồ bình dân, ăn lời 3%, còn gọi 3 phân, thuở ấy cái gì cũng cầm được; từ món nữ trang, chiếc đồng hồ đeo tay cho đến bộ đổ "tây", cái quần mỹ a, bộ áo dài, chiếc xe đạp đều có thể biến thành món tiền trang trải trong lúc ngặt nghèo!

Qua khỏi tiệm Huỳnh Thị Dậu, là cơ sở sửa tủ lạnh của ông Hai Dung, có đứa con trai tên Bòn, sau nầy nối nghiệp cha, tiệm làm ăn rất phát đạt. Kế đó, có kho hàng hãng Poinsard Veret của người Pháp -chữ nầy lâu quá không bảo đảm viết trúng- sau 1975 thành xí nghiệp bóng đèn Điện Quang.

Dân Tôn Đản cựu trào chắc không ai quên nhà bảo sanh Lao Động, của bác sĩ Nguyễn Bính Phương. Bác sĩ Phương là anh của nhà văn An Khê Nguyễn Bính Thinh. Tháng 6/1954 , thiếu tá Nguyễn Bính Thinh bị thương nặng trong trận phục kích Binh Đoàn 100 của Pháp tại cây số 15, đèo Mang Yang nên viết văn lấy bút hiệu An Khê. Dù nhà bảo sanh có tên Lao Động, mọi người đều gọi là “Nhà thương Con Cò”, vì lẽ đơn giản phía trước nhà bảo sanh này có gắn hình một con cò đang chắp cánh bay. Tháng 4 năm 1955, Bình Xuyên gây hấn ở Đô Thành, không biết vì lý do gì mà Bác sĩ Nguyễn Bính Phương bị mấy ông kẹ “công an xung phong” của Bình Xuyên bắt thủ tiêu!

Đi xuống chưa tới 100 mét, gặp ngã ba Tôn Đản - Đỗ Thanh Nhơn, còn gọi ngã ba Cầu Cống. Có sử gia viết tên ông Đỗ Thanh Nhơn thành Đỗ Thanh Nhân, đó là quyền của nhà chép sử. Chớ thật ra, tên thật của người ta thì nên viết cho đúng, hà cớ gì phải đổi? Trong Gia Định tam hùng theo phò vua Gia Long, ngoài Đỗ Thanh Nhơn và Châu Văn Tiếp còn ông Võ Tánh. Đường Đỗ Thanh Nhơn nầy, sau 1975 đổi tên thành đường Đoàn Văn Bơ.

Ngay đầu ngả ba Tôn Đản - Đỗ Thành Nhơn phía bên trái, có một ngôi chợ nhỏ mang cái tên thật bình dân: chợ Cầu Cống. Chợ nầy càng về sau càng sung, vì dân số Quận Tư càng ngày càng tăng. Có lẽ Quận Tư bao giờ cũng là đất dung thân cho dân nghèo bốn phương tám hướng. Khói lửa chiến tranh khiến biết bao mảnh đời thôn dã phải bỏ ruộng, bỏ vườn trôi giạt về đây tìm một chỗ nương náu.


Chợ Cầu Cống đặc biệt hơn các chợ khác vùng Khánh Hội, Vĩnh Hội vì người ta gọi nó tới ba tên mà ai cũng hiểu. Chợ Cầu Cống, chợ Cây Bàng hay chợ Cây Keo đều chỉ ngôi chợ nhỏ đó. Từ cuối đường Tôn Đản, vùng Tôn Thất Thuyết muốn đi chợ Cầu Cống mua 
 thức ăn chỉ cần leo lên xe ngựa, tới chợ trả một đồng bạc. Vô chợ mua một xâu lòng bò cột sẵn giá ba đồng gồm lá sách, tim, gan, phổi và một bó cải ngọt một đồng, chị bán hàng cho thêm hai tép hành không tính tiền. Thế là buổi chiều, cả nhà có bữa cơm ngon miệng, "lòng bò xào cải ngọt" thua gì đi ăn cao lầu Đồng Khánh trong Quận Năm?

Tưởng cũng cần giải thích, tại sao gọi chợ Cầu Cống? Nguyên do là sát bên đó, rạch Cầu Chông từ sông Bến Nghé đâm ngang đường Bến Vân Đồn, sau khi quanh co trong những xóm nghèo, ra tới đường Tôn Đản, băng ngang một cái cống lớn xây bằng xi măng rồi tiếp tục chảy về vùng kho 11. Bên cạnh cống, có cây keo thân lớn xù xì, không biết trồng từ đời nào. Loai keo nầy cho trái màu xanh, lúc chín màu đỏ, ăn có vị ngọt, trẻ em rất thích. Thập niên 50, những chiếc ghe mía từ Cầu Ông Lãnh qua hoặc ghe chở nước uống, neo đậu tại miệng cống, bán hết mía, đổi hết nước mới về.
Ông bà ngày xưa, cứ "thấy mặt đặt tên", nào là Xóm Gà, chợ Cây Thị, chợ Cây Sa Sà, Xóm Lu rồi Cầu Ba Cẳng, chợ Cầu Cống thật dễ hiểu, dễ nhớ cũng rất thân thương!

Thời gian về sau, dân cư càng ngày càng phát triển đông đúc, nhà sàn lấn dần dòng chảy, rạch Cầu Chông chịu chung số phận với những con kinh nước đen của Sài Gòn và Gia Định.