Showing posts with label Dancing. Show all posts
Showing posts with label Dancing. Show all posts
Thursday, August 28, 2014
Vũ điệu Boston
Vũ điệu Pasodoble
Xuất xứ từ miền Nam nước Pháp và bắt đầu thịnh hành vào thập niên 1930, Paso Doble là điệu nhảy dân gian mô phỏng các bước tự nhiên của con người từ các cuộc đấu bò ở Tây Ban Nha.
Paso Doble mô tả người võ sĩ đấu bò với áo choàng và được nhảy với nhịp điệu hành khúc. Điệu Paso Doble tạo ra một không khí trên sàn tương tự cuộc đấu bò ở Tây Ban Nha, người nam như một chiến sĩ đất bò tót (matador) và người nữ được mô phỏng như chiếc khăn (cape).
Paso Doble là điệu nhảy latin duy nhất không có nguồn gốc từ văn hóa của người châu Phi, và do vậy nó không hề có các chuyển động lắc mông hay thân người. Đặc điểm của Paso Doble là khi nhảy phải kiêu hãnh và đĩnh đạc, ngực nâng cao, vai mở rộng, thân nghiêng thẳng. Trọng tâm ở phía trước trên mũi chân, phần lớn các bước tiến bằng gót, với đặc điểm “diễu hành” nên các bước đòi hỏi phải dũng mãnh và có lực căng.
Vũ điệu Chachacha
Trong số các nhịp điệu La Tinh, cha cha cha có lẽ là một trong những dòng nhạc khiêu vũ phổ biến nhất. Phần lớn cũng vì thể điệu này đơn giản và dễ nhảy hơn nhiều so với các vũ điệu mambo và salsa. Một cách chính thức, điệu cha cha cha sinh ra vào năm 1954, nhưng thật ra đã manh nha từ vài năm trước đó.
Sinh tại Pinar del Rio, Enrique học đàn vĩ cầm từ năm 12 tuổi. Nhờ có năng khiếu, nên ông được tuyển vào nhạc viện thành phố La Havana. Sau khi tốt nghiệp, ông bắt đầu đi diễn với dàn nhạc của Học viện Quốc gia Âm nhạc (Cuba's National Institute of Music) dưới sự điều khiển của nhạc trưởng González Mántici.
Từ cuối những năm 1940, Enrique Jorrín bắt đầu sáng tác khi ông tham gia vào nhiều ban nhạc nhẹ (thường được gọi là charanga), trong đó có nhóm Hermanos Contreras và nhất là dàn nhạc Orquesta América, dưới sự điều khiển của nhạc sư Ninón Mondéjar. Dàn nhạc này chuyên biểu diễn tại vũ trường Silver Star (có nghĩa là Sao Bạc), một trong những câu lạc bộ khiêu vũ nổi tiếng nhất La Havana thời bấy giờ.
Chữ cha cha cha chính là cái tiếng động của nhịp chân trên sàn gỗ, ở cuối câu thường có ba bước nhảy liền nhịp. Tuy không phải là bài cha cha quen thuộc nhất, nhưng ít ra, Silver Star đã định hình nền tảng cho các bước nhảy cơ bản sau này.
Khi nhắc tới các bài cha cha lừng danh trên khắp thế giới, rất quen thuộc với công chúng ở mọi nơi, thì nhiều người thường hay nghĩ tới những bài như Muñequita Linda (Búp bê xinh xắn) còn có tiểu tựa là Te Quiero Dijiste, bản Quien Sera, tức là Sway trong tiếng Anh hay là Đêm Vui theo cách đặt lời của tác giả Anh Bằng, bài Quizas Quizas (Nào biết Nào hay).
Bài Pepito Mi Corazón từng được dịch sang tiếng Việt thành bản Người tình Nam Mỹ hay là nhạc phẩm Cherry Pink and Apple Blossom White từng được tác giả Từ Vũ dịch thành nhạc phẩm Cánh bướm vườn xuân trong tiếng Việt (ông cũng là người viết lời Việt Cánh buồm xa xưa cho bài La Paloma), cho dù nhiều ca khúc được chuyển thể theo điệu cha cha, chứ không phải được viết ban đầu cho thể điệu này.
Bút sa gà chết. Ở đây phải nhắc tới trường hợp của bản Cherry Pink, tiêu biểu cho cách dùng hình tượng sai lầm mà không chi tháo gỡ nổi, một khi đã ghi âm. Trong nguyên tác, đây là một ca khúc tiếng Pháp mang tựa đề Cerisier rose et pommier blanc (Hoa anh đào màu hồng và hoa táo màu trắng), của nhạc sĩ Louiguy, nghệ danh viết tắt từ tên thật của ông là Louis Guglielmi (1916-1994).
Điệu cha cha gắn liền với những hình ảnh cổ xưa hoài niệm. Các tác giả thời nay khi viết nhạc theo điệu cha cha thật ra muốn tạo thế đối trọng, muốn đi ngược lại các trào lưu thời thượng. Một ví dụ điển hình là bài Joe Le Taxi (1987) qua phần thể hiện của Vanessa Paradis ra đời vào lúc mà nhạc pop đang trở nên cực thịnh tại Pháp. Một cách tương tự, bài Smooth Operator của Sade phá kỷ lục số bán vì mang sắc thái âm thanh hoàn toàn khác biệt so với phong trào new wave thịnh hành tại Anh Mỹ thời bấy giờ.
Thời nay, ít có người nào còn để ý tác giả Enrique Jorrín là ai. Cho dù lối sáng tác của ông đã đặt ra khuôn mẫu cho nhiều bản nhạc sau đó, các bài cha cha thường hay chuyển nhịp thành mambo trong các đoạn nhạc chuyển tiếp hay ở phần điệp khúc cuối. Hầu như ai ai cũng không còn để ý đến cái thuở khai sinh của thể điệu cha cha, thời mà dàn nhạc Orquesta America tung hoành tại vũ trường Silverstar, thời mà những gót chân ngọc ngà bước ra sàn nhảy thướt tha, thời của những tà áo dạ hội lấp lánh kiêu sa muôn ánh sao bạc ngân hà.
Vũ điệu Valse
Nguồn Gốc Valse
Nguồn
gốc của điệu Slow Valse:
Điệu nhảy Waltz và
lịch sử phát triển Trước khi cách mạng Pháp nổ ra, các phong cách khiêu vũ trau
chuốt trong chốn cung đình Pháp đã thống trị toàn châu Âu. Khi chấm dứt thời kỳ
cách mạng Pháp, Áo trở thành điểm hội tụ của văn hoá âm nhạc và văn chương của
châu Âu. Người ta quan tâm nhiều hơn tới các điệu nhảy và Landler di chuyển từ
vùng nông thôn tới những phòng khách sang trọng – nơi nó được chải chuốt và
tinh lọc. Nó nhanh chóng trở nên được ưa chuộng ở nhiều nơi ở Đức và Áo với nhiều
biến thể theo tên khu vực địa phương. Điệu nhảy “Landl ob der Enns” trong tầng
lớp thượng lưu Áo trở nên rất phổ biến dưới cái tên viết tắt là “Landler”. Ban
đầu người ta nhảy Landler với những đôi giày nặng và có những bước nhảy lò cò,
vỗ tay và giậm chân và những vòng quay dưới tay phức tạp. Tuy nhiên vào những
năm 1800, Landler được mô tả là được thể hiện với những đôi giày nhẹ hơn và có
những chuyển động quay lướt khá nhanh như Waltzen nhưng với nhịp độ chậm hơn.
Tên điệu nhảy được đổi thành Walzer do tính chất lướt và trượt của nó, sau đó từ
này được rút gọn thành Waltz như ngày nay trên khắp châu Âu. Waltz là điệu nhảy
đầu tiên sử dụng tư thế đóng trong một khoảng thời gian dài. Nhiều nơi điệu
Waltz còn bị cấm trong các ballroom công cộng trong nhiều năm. Sự phổ biến của
Waltz cuối cùng cũng đã vượt qua được những hạn chế và chống đối. Tư thế đóng mặt-đối-mặt
trở thành tiêu chuẩn cho phong cách khiêu vũ ballroom và được sử dụng trong đa
số các điệu nhảy phát triển trong thời kỳ này.
Nguồn
gốc của điệu Slow Valse:
Điệu nhảy Waltz và lịch sử phát triển Trước khi cách mạng Pháp nổ ra, các phong cách khiêu vũ trau chuốt trong chốn cung đình Pháp đã thống trị toàn châu Âu. Khi chấm dứt thời kỳ cách mạng Pháp, Áo trở thành điểm hội tụ của văn hoá âm nhạc và văn chương của châu Âu. Người ta quan tâm nhiều hơn tới các điệu nhảy và Landler di chuyển từ vùng nông thôn tới những phòng khách sang trọng – nơi nó được chải chuốt và tinh lọc. Nó nhanh chóng trở nên được ưa chuộng ở nhiều nơi ở Đức và Áo với nhiều biến thể theo tên khu vực địa phương. Điệu nhảy “Landl ob der Enns” trong tầng lớp thượng lưu Áo trở nên rất phổ biến dưới cái tên viết tắt là “Landler”. Ban đầu người ta nhảy Landler với những đôi giày nặng và có những bước nhảy lò cò, vỗ tay và giậm chân và những vòng quay dưới tay phức tạp. Tuy nhiên vào những năm 1800, Landler được mô tả là được thể hiện với những đôi giày nhẹ hơn và có những chuyển động quay lướt khá nhanh như Waltzen nhưng với nhịp độ chậm hơn. Tên điệu nhảy được đổi thành Walzer do tính chất lướt và trượt của nó, sau đó từ này được rút gọn thành Waltz như ngày nay trên khắp châu Âu. Waltz là điệu nhảy đầu tiên sử dụng tư thế đóng trong một khoảng thời gian dài. Nhiều nơi điệu Waltz còn bị cấm trong các ballroom công cộng trong nhiều năm. Sự phổ biến của Waltz cuối cùng cũng đã vượt qua được những hạn chế và chống đối. Tư thế đóng mặt-đối-mặt trở thành tiêu chuẩn cho phong cách khiêu vũ ballroom và được sử dụng trong đa số các điệu nhảy phát triển trong thời kỳ này.
Điệu nhảy Waltz và lịch sử phát triển Trước khi cách mạng Pháp nổ ra, các phong cách khiêu vũ trau chuốt trong chốn cung đình Pháp đã thống trị toàn châu Âu. Khi chấm dứt thời kỳ cách mạng Pháp, Áo trở thành điểm hội tụ của văn hoá âm nhạc và văn chương của châu Âu. Người ta quan tâm nhiều hơn tới các điệu nhảy và Landler di chuyển từ vùng nông thôn tới những phòng khách sang trọng – nơi nó được chải chuốt và tinh lọc. Nó nhanh chóng trở nên được ưa chuộng ở nhiều nơi ở Đức và Áo với nhiều biến thể theo tên khu vực địa phương. Điệu nhảy “Landl ob der Enns” trong tầng lớp thượng lưu Áo trở nên rất phổ biến dưới cái tên viết tắt là “Landler”. Ban đầu người ta nhảy Landler với những đôi giày nặng và có những bước nhảy lò cò, vỗ tay và giậm chân và những vòng quay dưới tay phức tạp. Tuy nhiên vào những năm 1800, Landler được mô tả là được thể hiện với những đôi giày nhẹ hơn và có những chuyển động quay lướt khá nhanh như Waltzen nhưng với nhịp độ chậm hơn. Tên điệu nhảy được đổi thành Walzer do tính chất lướt và trượt của nó, sau đó từ này được rút gọn thành Waltz như ngày nay trên khắp châu Âu. Waltz là điệu nhảy đầu tiên sử dụng tư thế đóng trong một khoảng thời gian dài. Nhiều nơi điệu Waltz còn bị cấm trong các ballroom công cộng trong nhiều năm. Sự phổ biến của Waltz cuối cùng cũng đã vượt qua được những hạn chế và chống đối. Tư thế đóng mặt-đối-mặt trở thành tiêu chuẩn cho phong cách khiêu vũ ballroom và được sử dụng trong đa số các điệu nhảy phát triển trong thời kỳ này.
Điệu múa dân gian Đức (Allemande) được mọi người công nhận là một trong những tổ tiên của vũ điệu valse. Ban đầu, người ta nhảy chậm chạp theo nhịp điệu nhị phân, sau đó, nhịp độ ba thì đã cho vũ điệu này tính cách thật sống động hơn.
Điệu nhẩy Ländler khởi thủy được nhẩy ở ngoài trời hay trong các quán ăn bình dân ở thôn làng. Ngày nay điệu Ländler này vẫn còn được thịnh hành trong các lễ hội bình dân. Cũng giống như trong điệu múa dân gian Allemande, những cặp đôi trai gái gắn chặt vào nhau quay chạy nhưng phong cách kém trang nhã hơn trong nhịp điệu 3 thì khá nhanh.
Những nhạc cụ được xử dụng là một cây accordéon nguyên thủy, một chiếc kèn harmonica, một chiếc đàn đàn xita (zither) và một cây đàn dulcimer (hơi giống như cây đàn xita). Cho tới thế kỷ thứ XIX người ta còn xử dụng một chiếc lá cây lê đặt trên môi trên để thổi , chiếc lá lê này nay đã được thay thế bằng một chiếc lá nhân tạo cũng có hình lá cây lê, âm thanh vang ra khi được thổi trên viền chiếc lá.
Những nhạc cụ được xử dụng là một cây accordéon nguyên thủy, một chiếc kèn harmonica, một chiếc đàn đàn xita (zither) và một cây đàn dulcimer (hơi giống như cây đàn xita). Cho tới thế kỷ thứ XIX người ta còn xử dụng một chiếc lá cây lê đặt trên môi trên để thổi , chiếc lá lê này nay đã được thay thế bằng một chiếc lá nhân tạo cũng có hình lá cây lê, âm thanh vang ra khi được thổi trên viền chiếc lá.
Các điệu Hoppaldei, Dreher, Schleifer, Deutschen (tên mà các nhạc sĩ Schubert và Lanner đã đặt cho những bản Valse đầu tiên của họ) là những điệu múa nông dân khác cũng với từng cặp trai gái gắn chặt vào nhau quay chạy.
Tại Triều Đình Áo Ở Vienne Vào Thế Kỷ thứ XVIII ...
Các điệu valse - Walzer - xuất hiện trong thế kỷ XVIII và đề cập đến dáng điệu cuối cùng của những điệu nhẩy Ländler. Cũng rất có thể là vũ điệu Valse đã được phát triển từ điệu Allemande tại các thành phố và từ vũ điệu Ländler ở các vùng nông thôn .
Tiếp đó, các điệu múa nông dân này đã gây cảm hứng cho nhà soạn nhạc tại Vienne, thủ đô nước Áo, vào cuối thế kỷ thứ mười tám.
Các nhạc sĩ Mozart , Haydn, Beethoven, những bản nhạc valse đầu tiên của họ với thể dạng vẫn chưa có gì chắc chắn, để dần dần , người nghe thậm chí không cần gì phải lão luyện cũng có thể xác định nhịp điệu đặc trưng của điệu nhảy: một sự nhấn mạnh trên nhịp thấp ở ngay thì đầu tiên để tiếp theo đó là hai hợp âm.
Sau khi những người trong họ Strauss biến dạng, thủ đô Áo, Vienne vẫn tiếp tục nhẩy vũ điệu Valse. Hàng trăm buổi dạ vũ mở ra mỗi năm và trong số những buổi đại dạ vũ đó có đại dạ vũ Opernball. Năm 1877 đã diễn ra buổi đại dạ vũ đầu tiên với sự tham dự của tất cả các giới vương giả trên toàn thế giới. Về sau này, buổi đại dạ vũ này là nơi ăn chơi hò hẹn của giới phú qúy giầu sang. Trong những năm 1980, Opernball trở thành nơi của tả phái để phản đối sự khoe khoang sự giầu sang này.

Tại
Vienna, khi điệu Waltz ngày càng phát triển dẫn đến sự thay đổi về nhịp độ
(tempo). Johann Strauss (1825-1899) đã kế tục cha – một “Hoàng đế của điệu
Waltz ở thành Vienna” đã tăng thêm các phách trong một nhịp và từ đó ra đời điệu
Viennese Waltz như thế giới đều biết tới ngày nay, điệu nhảy này đòi hỏi sự
khéo léo và khả năng chịu đựng. Viennese Waltz ngự trị trong các ballroom cho tới
Đại chiến thế giới lần thứ nhất, khi mà tất cả những gì liên quan tới Đức đều bị
ghét cay ghét đắng ở châu Âu và Mỹ. Một dạng chậm hơn của Viennese Waltz được
thực hiện khoảng 90 phách trong một phút phát triển ở Mỹ năm 1870 và được gọi
là Boston. Phiên bản vẫn duy trì những hình điệu quay đặc trưng và thêm vào các
bước mới, tay của những người nhảy đặt lên hông nhau. Điệu Boston có những đặc
trưng của điệu nhảy ballroom đầu tiên với hai chân song song chứ không xoay ra
ngoài như ballet. Vào khoảng năm 1910, Boston đã được giới trẻ Anh chấp nhận và
trở nên thịnh hành cho tới khi thoái trào khoảng năm 1914. Tháng 12 năm 1922 điệu
Waltz chậm hay còn gọi là English Waltz được đưa vào giải khiêu vũ vô địch thế
giới.
Ngày
nay điệu nhảy này là điệu nhảy được chú trọng nhất trong các giải thi đấu mặc
dù sự kết hợp các bước nhảy tương đối đơn giản. Đây là điệu nhảy du dương nhất
trong các điệu nhảy tiêu chuẩn. Tốc độ điệu nhảy này bằng khoảng một nửa điệu
Viennese Waltz. Các nhóm biểu diễn khiêu vũ như Irene và Vernon Castle đã đưa
thêm các hình điệu mới mà không thể thực hiện được trong nhịp độ nhanh của
Viennese Waltz. Điệu Waltz châu Mỹ chậm hơn và do đó ít gây lỗi hơn điệu
Viennese Waltz. Nhạc Waltz chậm là nhạc 3/4 với 3 phách bằng nhau trong một nhịp.
Nốt đầu tiên của nhịp được nhấn. Người nhảy cần nghe được nốt nhấn này để xác định
bước nhấn này (1 hoặc “boom”). Ta có thể đếm là “một hai ba” hay “boom cha
cha”. Trong Waltz chậm, mỗi lần đếm tương đương với một chuyển động liên quan của
chân. Cho dù có nốt nhấn song mỗi nốt vẫn có trường độ bằng nhau.
Tại
Vienna, khi điệu Waltz ngày càng phát triển dẫn đến sự thay đổi về nhịp độ
(tempo). Johann Strauss (1825-1899) đã kế tục cha – một “Hoàng đế của điệu
Waltz ở thành Vienna” đã tăng thêm các phách trong một nhịp và từ đó ra đời điệu
Viennese Waltz như thế giới đều biết tới ngày nay, điệu nhảy này đòi hỏi sự
khéo léo và khả năng chịu đựng. Viennese Waltz ngự trị trong các ballroom cho tới
Đại chiến thế giới lần thứ nhất, khi mà tất cả những gì liên quan tới Đức đều bị
ghét cay ghét đắng ở châu Âu và Mỹ. Một dạng chậm hơn của Viennese Waltz được
thực hiện khoảng 90 phách trong một phút phát triển ở Mỹ năm 1870 và được gọi
là Boston. Phiên bản vẫn duy trì những hình điệu quay đặc trưng và thêm vào các
bước mới, tay của những người nhảy đặt lên hông nhau. Điệu Boston có những đặc
trưng của điệu nhảy ballroom đầu tiên với hai chân song song chứ không xoay ra
ngoài như ballet. Vào khoảng năm 1910, Boston đã được giới trẻ Anh chấp nhận và
trở nên thịnh hành cho tới khi thoái trào khoảng năm 1914. Tháng 12 năm 1922 điệu
Waltz chậm hay còn gọi là English Waltz được đưa vào giải khiêu vũ vô địch thế
giới.
Lịch sử các điệu nhảy
Các điệu nhảy Châu Mỹ Latin luôn đem lại một nhịp điệu vô cùng sôi nổi, náo nhiệt và hấp dẫn cả người xem và người tham gia nhảy...Lịch sử của các điệu nhảy này bắt nguồn từ những đất nước và đôi khi từ những tình huống hết sức kỳ lạ.... |
ĐIỆU NHẢY CHA CHA CHA Có lẽ Cha Cha Cha là điệu nhảy phổ biến nhất trong các điệu nhảy Latin. Đó cũng là điệu nhảy mà nhiều người thích học đầu tiên. Tiền thân của Cha Cha Cha là điệu nhảy Mambo. Tên gọi Cha Cha Cha là do bắt chước tiếng giày gõ trên mặt sàn của phụ nữ trong khi nhảy. Cha Cha Cha xuất hiện đầu tiên ở Châu Mỹ và rồi du nhập vào Châu Âu cùng lúc với tiền thân của nó là Mambo. Sau đại chiến thế giới lần II, Cha Cha Cha đã gạt Mambo sang một bên và thực sự phổ biến vào năm 1956. Do nguồn gốc của nó, nhạc Cha Cha Cha phải được chơi thật đam mê và rất phóng khoáng và cùng với đặc điểm “gằn” (staccato) đã giúp cho người nhảy dễ đem đến cho cử tọa một bầu không khí thoải mái, nghịch ngợm. Thêm nữa hầu như các nhạc công có thể chơi tất cả các bản nhạc quen thuộc theo tiết tấu Cha Cha Cha. Điều này khiến cho điệu nhảy càng thêm thích thú. Gần đây có ý kiến rút gọn tên Cha Cha Cha thành Cha Cha. CÁC ĐIỆU NHẢY WALTZES Ngoại ô thành phố Vienna và một số vùng nước Áo. Là điệu nhảy đầu tiên được nhảy trong tư thế đối diện ôm sát nhau, trở thành tiêu chuẩn cho nhiều điệu nhảy phát triển từ thời kỳ đó. Những năm 1830, 2 nhà soạn nhạc Áo Franz Lanner và Johann Strauss, đã mang đến cho nhạc Waltz một sự thay đổi lớn, đưa tốc độ nhạc tiêu chuẩn lên rất nhanh, tới 55-60 nhịp/phút. Mỹ vào những năm cuối của thế kỷ 19 xuất hiện những giai điệu nhạc Waltz mới với tốc độ chậm hơn thay thế cho những bản nhạc Vienna quen thuộc. Có 2 biến thể mới là Boston và Hesitation. Boston nhanh chóng biến mất khi đại chiến thế giới lần thứ nhất xẩy ra để rồi khi chiến tranh kết thúc biến tướng theo 2 hướng thành American Waltz và English Waltz ĐIỆU NHẢY QUICKSTEP Từ điệu nhảy Foxtrot. Trong những năm 1920, nhiều ban nhạc chơi Foxtrot rất nhanh. tới 50 nhịp/phút, khiến cho nhiều bước nhảy của Foxtrot không thể nhảy được . Đôi nhảy người Anh Frank Ford và Molly Spain đã nhảy trong cuộc thi ''Star'' Championships năm 1927 một phiên bản của điệu nhảy FOXTROT NHANH VÀ CHARLESTON không có những động tác đầu gối đặc trưng của Charleston và khiến nó từ một điệu nhảy đơn thành một điệu nhảy hai người. Năm 1928/1929, Quickstep đã được định hình với những bước chassé. ĐIỆU NHẢY FOXTROT Harry Fox là người đưa điệu nhảy Foxtrot ra “trình làng” ở New York vào năm 1913 Ban đầu, tốc độ Foxtrot nhanh hơn bây giờ và không chặt chẽ lắm, có thể từ 40 đến 50 nhịp/phút phụ thuộc vào ý thích của người chỉ huy dàn nhạc. Mãi tới khi ban nhạc của Victor Silvester bắt đầu ghi âm, tốc độ của Foxtrot mới được ổn định. Foxtrot được đưa sang châu Âu từ trước Đaị chiến thế giới lần thứ nhất. Các vũ sư nước Anh và châu Âu không mấy thiện cảm với tính chất phóng khoáng của nó đã chỉnh trang ít nhiều và đưa ra một phiên bản mới là Slow Foxtrot, với những bước nhảy dài, mềm mại, và những kỹ thuật cơ bản tồn tại cho đến ngày nay. ĐIỆU NHẢY TANGO Gần cuối thể kỷ 19, tại thành phố Buenos Aires, Argentina đầu những năm 1900, một điệu nhảy Tango được những người nhập cư Argentina du nhập sang Pháp. Với sự tham gia của quần áo cầu kỳ, những phòng nhảy sang trọng và trữ tình, dàn nhạc quy mô, điệu nhảy Tango đã thay da đổi thịt để rồi năm 1912 trở thành một điệu nhảy thời thượng khắp châu Âu và cả nước Mỹ ĐIỆU NHẢY RUMBA Từ rất nhiều các điệu nhảy khác nhau như Afro-Cuban, Son, Son-Montuno, Danson, Daaanzon, Guarira, Mambo,Conga, Guaracha, Nanigo... Rumba hình thành chủ yếu ở Cuba nhưng cũng có những điệu nhảy tương tự được phát triển ở các hòn đảo vùng Caribean khác và ở Nam Mỹ nói chung Cho đến những năm 1928/1929 những bước nhảy và động tác của điệu nhảy này vẫn còn chưa định hình. Pierre cùng Doris Lavelle là những người có công đầu trong việc phổ biến Rumba vào châu Âu vào những năm 1930. Vào giữa những năm 1940 Rumba du nhập vào Mỹ và trở thành Rumba Mỹ. Sau đại chiến thế giới lần II, cũng chính nhờ Pierre và Doris Lavell mà Rumba được phát triển thêm và trở thành Rumba Cuba. Họ đã đề ra cách nhảy Rumba bước đầu đi vào phách 2. Đến khi Walter Laird bắt đầu viết những cuốn sách về các điệu nhảy Latin và được nhiều tổ chức khiêu vũ chính thức thừa nhận. ĐIỆU NHẢY SAMBA Có nguồn gốc từ Châu Phi và được những người nô lệ làm việc ở các đồn điền trồng mía mang đến Bahia một vùng đất phía bắc Brasil. đôi nhảy xuất sắc người Mỹ Irene và Vernon Castle đã đưa Samba vào trong chương trình các bài nhảy chuyên nghiệp của mình khiến cho điệu nhảy trở nên phổ biến. Tuy nhiên chính Carmen Miranda, vũ công xuất sắc nhất Brasil cùng với đoàn nhảy múa của mình mới là người đã đưa Samba lên địa vị là một trong những điệu nhảy hấp dẫn nhất thế giới. ĐIỆU NHẢY JIVE Khu Harlem ở New York Lính Mỹ mang vào nước Anh vào thời gian Đại chiến thế giới II. Điệu nhảy phát triển thành có mầu sắc thể thao và trở thành “Jitterbug”, với những động tác kích động như tung người, nâng và nhảy cao. Josephine Bradly và Alex Moore là những người đã phát triển điệu nhảy lên thành điệu Jive quốc tế dùng trong thi đấu và giao tiếp ngày nay. ĐIỆU NHẢY PASO DOBLE Tây Ban Nha. Pháp là nước đã phát triển Paso Doble thành một điệu nhảy giao tiếp, được nhảy ở nhiều miền nước Pháp. Phổ biến của Paso Doble là vào năm 1926. Sau đại chiến thế giới II, Paso Doble được chấp nhận là một điệu nhảy thi đấu |
Vũ điệu Salsa
Lịch sử của điệu nhảy Salsa gắn liền với những tranh cãi và đồn đoán. Mặc dù vẫn có một số ít người không đồng tình rằng âm nhạc và các bước nhảy của Salsa bắt nguồn chủ yếu từ điệu Son của Cuba, phần lớn đều nhất trí cho rằng điệu Salsa mà chúng ta biết ngày nay là một biến thể của những điệu nhảy xưa. Cộng đồng Latin ở New York đã từng có một dạng khiêu vũ và âm nhạc rất sôi động trong thập niên 50 nhưng lại không mấy thành công với dòng chính là 'Anglo'. Và trong thập niên 70, khi cụm từ "Salsa" được chấp nhận đã rút ngắn khoảng cách về ngôn ngữ và văn hoá , dỡ bỏ những rào cản đối với sự công nhận và phổ biến của âm nhạc cũng như khiêu vũ xuất phát từ Mỹ Latin.
Điệu Salsa dựa trên một nhịp điệu gốc bao gồm 2 bước nhảy trong đó mỗi điệu có 4 nhịp nhỏ. Bước cơ bản thì có chỉ dùng 3 nhịp trong mỗi bước. Bước nhảy này có thể theo nhịp nhanh-nhanh-chậm, trong đó, 2 nhịp dùng để chuyển trọng tâm cơ thể; hoặc, nhanh-nhanh-nhanh cho phép người nhảy dậm nhẹ hay thêm thắt vào những ngẫu hứng của riêng mình trong nhịp bỏ trống. Cũng có những tranh cãi cho rằng có rất nhiều đặc điểmtrong Salsa, 2 bước nhảy nên được xem là một và theo đó thì nhịp nhảy sẽ được đếm từ 1 đến 8 kéo dài hai nhịp nhạc.
Thông thường, nhạc để nhảy Salsa là một phức hợp của những giai điệu từ bộ gõ Châu Phi dựa trên Son clave hay Rumba clave. Âm nhạc thích hợp để nhảy Salsa cũng rất phong phú: có thể là loại nhạc chậm khoảng 70 nhịp/phút hay loại nhạc nhanh khoảng 140 nhịp/phút. Thông thường thì nhạc Salsa sẽ ở vào khoảng 80-120 nhịp/phút.
Vũ điệu Tango
Điệu Tango là sự hòa quyện, chìm đắm trong say mê của đôi tình nhân với những nhịp nhanh chậm đan xen. Không đơn thuần chỉ là một điệu nhảy, nó như tâm trạng, triết lý, nghệ thuật sống và hơn hết đó là sự huyền thoại ....
Những nét đặc trưng của điệu Tango: Nhịp phách: 2/4 và 4/4, phách 1 được nhấn mạnh, phách 3 nhẹ hơn, vào ở phách 1 (với nhạc 4/4). Tốc độ: 32 - 33 nhịp/phút, tức là 128 - 132 phách/phút. Cách đếm: Kết hợp giữa S, Q và & (trong đó, S là 2 phách, Q là 1 phách, & là nửa phách)…
Vũ điệu Tango chào đời ở Buenos Aires, thủ đô Argentine vào cuối thế kỷ thứ XIX, bên bờ Rio de la Plata trong khu vực lân cận của thủ đô Argentina - La Plata , tiếng Tây Ban Nha, (sông Bạc) là biên giới giữa hai nước Argentina và Uruguay. Hai cảng chính trên sông là Buenos Aires ở nam ngạn và Montevideo bên bắc ngạn. Nơi đây thành phần xã hội trong thời gian này là những người di dân nghèo nàn, đa số là đàn ông, sống trộn lẫn với đĩ điếm , trộm cắp... trong các khu ổ chuột gọi là «Arrabal» hoặc trong các dãy nhà lớn như doanh trại (conventillos). Những di dân này từ các nước châu Âu tới... và họ nghe , nhảy theo các điệu Habaneras (điệu nhẩy của những người Cuba) , Polkas - điệu múa của những người gốc vùng Bohême (hiện nay là nước Cộng hoà Tchèque) , Mazurkas (điệu múa gốc Ba Lan) , Waltz (gốc Đức), Flamenco (Tây Ban Nha), Milonga (đến từ vùng Pampas Argentina) .. . Cùng lúc đó người da đen, với khoảng 25% dân số của thủ đô Buenos Aires , những người này nhảy theo nhịp điệu Candombe , một loại âm nhạc được phát triển ở nước Uruguay mà nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc cho rằng nguồn gốc bắt nguồn từ Phi châu. Nói chung lại một cách không quá đáng thì mỗi quốc tịch đã mang tới Buenos Aires lối sống của mình cùng các truyền thống âm nhạc để góp phần trong Tango.
Những dấu ấn
Mặc dù các nhà nghiên cứu lịch sử âm nhạc đã tranh cãi nhiều về nguồn gốc xác thực của Tango, nhưng nhìn chung, người ta thừa nhận điệu nhảy này đã được vay mượn từ nhiều nước - những giai điệu của những nô lệ châu Phi gõ trên trống; điệu milonga của những cánh đồng hoang Nam Mỹ được kết hợp giữa những giai điệu Ấn Độ và điệu nhạc của những người Tây Ban Nha đi khai hoang, ngoài ra, còn có những ảnh hưởng khác trong đó có Latin. Một số người cho rằng từ “Tango” xuất phát từ tiếng Latin ”tangere” (có nghĩa là kề sát nhau). Tuy nhiên, thời gian đầu, Tango luôn bị tầng lớp những người da trắng ở châu Mỹ bài xích và coi đó là "không lành mạnh". Mãi đến năm 1880, một nhạc sĩ người Uruguay chính thức sáng tác bản nhạc đầu tiên cho vũ điệu Tango thì sức mạnh của nó mới thực sự bùng cháy, khiến hàng triệu con tim rung động và say mê.
Những năm cuối thế kỷ 19, Tango Argentine chịu nhiều ảnh hưởng của các điệu nhảy châu Âu du nhập bởi làn sóng di cư từ châu Âu, châu Mỹ. Người Tây Ban Nha, người Italya, người Bồ Đào Nha... đều góp tay đi tìm cái mới, cái lạ ở vùng đất mới. Họ muốn hòa mình vào điệu nhảy giàu cảm xúc và rất mạnh mẽ của người dân bản xứ... Nó trở thành mode thịnh hành của Pháp và sau đó một thời gian ngắn là ở Anh, rồi Mỹ. Mỗi nước lại thay đổi nó theo cách của mình. Một nhạc sĩ Mỹ là Astor Piazzola đã mang những yếu tố của nhạc jazz vào trong Tango.
Tango châu Mỹ chưa tồn tại cho tới tận những năm 1913 - 1919, lúc đó Tango được du nhập từ Pháp, nhưng chủ yếu là qua Anh. Nhịp điệu “ bump bump ba - bump bump” được mở đầu với các bộ váy dài kiểu “bumpers” của các quý bà để tránh không quá chạm sát với những bạn nhảy của mình. Loại nhạc này nhanh chóng trở nên phổ biến ở Ý và trở thành quốc nhạc ở Phần Lan. Nhà soạn nhạc Kurt Weill cũng đã viết một số tác phẩm, trong đó nổi tiếng nhất là “Der Matrosensagen” (Bài hát của người thuỷ thủ). Những người Anglos thì đơn giản hóa điệu nhảy. Các thầy giáo người Mỹ dạy điệu foxtrot nhưng lại gọi đó là Tango.
Năm 1918, viết lời cho nhạc Tango có xu hướng phát triển mạnh và từ đó xuất hiện một ngôi sao mà giờ đây vẫn còn nổi danh 5 thập kỷ sau khi ông mất - ca sĩ Carlos Gardel. Hồi ức về lối trình diễn đầy lôi cuốn của ca sĩ điển trai này để lại trong lòng người Argentina sự sùng bái, không giống như những gì mà Elvis Presley đã có được ở Mỹ.
Không bao lâu sau, giới trí thức phong lưu giờ đây đã trở nên khác biệt hẳn so với tầng lớp lao động bắt đầu viết lời cho Tango. Vì những ảnh hưởng của họ, Tango trở nên lãng mạn hơn, hoài cổ hơn và là một ký ức ngọt ngào về tuổi thanh xuân trong một xã hội bình dị không bao giờ tồn tại. Khi Juan Peron nắm quyền năm 1946, Tango lại trở nên cực thịnh ở Argentina vì cả ông và phu nhân Evita đều hết lòng ủng hộ loại nhạc này. Nhưng sau cái chết của bà năm 1952, Tango lại rơi ra khỏi địa vị thống trị của nó. Với sự xâm chiếm của nhạc Rock&Roll Mỹ, Tango lại lỡ bước với thời gian…
Âm ỉ, nhen nhúm, rồi bập bùng ngây ngất, tiết tấu độc đáo của Tango, vào thế kỷ 20 từ Buenos Aires đã chinh phục khắp thế giới. Cho dù từng trải bao thăng trầm trong suốt hơn một trăm năm lịch sử, giống như cuộc đời của chủ nhân nó, Tango vẫn phát triển và tỏa lan khắp hành tinh. Phải chăng, sức quyến rũ và cảm hóa của Tango khiến người ta không dễ gì cưỡng lại? Người Argentine gửi gắm cả hồn mình vào nhịp bước của Tango như thể nó là người bạn tri kỷ vậy!
Trong thời kỳ phục hưng, không nhiều những gương mặt nổi bật - Điều kỳ lạ là thời đó không hề hoặc rất ít phụ nữ dạy Tango và phụ nữ chỉ đi nhảy thôi chứ chưa có định nghĩa “sao”. Thời kỳ mà chỉ nam giới mới được tôn vinh, còn phụ nữ, dù có “vượt” nam giới, nhưng cũng chỉ được xếp “hàng thứ”…
Những “phụ nữ nhảy Tango” đó làm thế nào để điệu nhảy của họ “được công nhận”. Dưới đây là một trong những phụ nữ điển hình đã làm được điều tưởng chừng không thể đó…
Graciela Gonzalez - “Nữ chiến binh điển hình của Tango”
Sắc nét, đơn giản, mạnh mẽ nhưng vẫn vô cùng tinh tế và duyên dáng là những bước Tango chắc nịch mà đầy nữ tính của Graciela Gonzalez. Graciela là một trong những phụ nữ tiên phong trong việc có "tiếng nói riêng" của mình ở điệu nhảy Tango.
Bố mẹ Graciela (đã qua đời) đều là những người sống trong “kỷ nguyên vàng của điệu Tango” và vì thế, họ là những nghệ sĩ nhảy Tango một thời, song Graciela lại chẳng học nhiều được từ họ... Theo Graciela, khi họ còn trẻ, loại nhạc duy nhất họ nghe được qua đài phát thanh là Tango, thời đó nhạc Tango và Jazz đang rất thịnh. Và điệu nhảy này đã giúp họ có nhau...
Bắt đầu học Tango từ năm 1988 tại một cung văn hóa gần nhà do nhóm của Gustavo Naviera hướng dẫn. Ngay ngày học đầu tiên, Graciela đã nhảy liên tục 4 tiếng đồng hồ và kể từ đó, Graciela chưa bao giờ ngừng nghỉ. Ngoài Gustavo Naviera, những nghệ sĩ Tango nổi tiếng khác thời đó như: Pupi Castello, Pepito Avellaneda, Antonio Todaro... (riêng Gustavo, ông là một trong những nghệ sĩ trẻ thời bấy giờ và dám làm những điều khác biệt!).
Graciela “vào đôi” với Pupi Castello lần đầu tiên vào năm 1998 tại một buổi tập và họ đã cùng nhau đi thi, sau đó đã đoạt giải nhất và rồi cặp đôi này được xem là những hạt mầm của Tango thế hệ mới…
Nếu nói về vai trò của nữ trong điệu Tango, Graciela xứng đáng được xem là người phụ nữ tiên phong. Không phải bởi bà nhảy rất đẹp mà còn là người soạn ra khóa học đầu tiên về kỹ thuật cho nữ với toàn các giảng viên nữ như Martha Anton, Veronica Alvarenga và dạy tại La Galeria of Tango. Đến năm 1994, lớp kỹ thuật cho nữ đầu tiên được khởi xướng.
Với bà, phong cách và cũng là điểm nhấn của mình đó là một “đôi chân tốt”. và điệu nhảy như thế nào là tuyệt hảo cũng được bà đề cập đến - đó không chỉ là một điệu nhảy mà bà xem đây như một cuộc du ngoạn, xem như không có gì liên quan đến hình dáng của điệu nhảy cả… chỉ là đi bộ với nhiều tổ hợp bước và phụ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh… Sự kết hợp là điều quan trọng nhất. Nếu không kết hợp được thì cũng chẳng có “cuộc du ngoạn” nào…
Nguồn Gốc của Tango
Nguyên thủy của điệu vũ Tango dường như được tìm thấy trong điệu nhẩy của người Cuba-Tây Ban Nha, truyền đạt trong quá trình liên lạc thương mãi thường xuyên giữa các hải cảng Havana ở Cuba và hải cảng ở Buenos Aires, Argentina.
Nhạc cụ thần thoại, đàn kéo bandoneon, nguồn gốc ở Đức xuất hiện một vài năm sau đó, vào năm 1900, dần dần thay thế cho cây sáo.
Hình như những âm thanh khác nhau của các nhạc cụ được tạo ra bởi những người tuy khác nguồn gốc, chủng tộc , màu da ... nhưng cùng có chung những hoài niệm một thời đã qua trong quá khứ và thậm chí cả những nỗi thống khổ của một tương lai không có gì là chắc chắn : Tango ra đời .
Trong thời kỳ đầu tiên, Vũ điệu Tango chỉ đơn thuần phô diễn những giai điệu đã có hoặc thêm thắt vào một số biến thể không bao giờ được ghi chép bởi lẽ đa số những người diễn tấu vừa không biết đọc lại vừa không biết viết âm nhạc.
Một vài năm sau đó , các bản Tangos đầu tiên đã được viết ra nhưng lại không mang chữ ký của một tác giả nào tuy nhiên những người trình diễn bấy giờ đã biết viết những bản dàn bè và họ lợi dụng sự phổ biến của một số tác phẩm "vô danh" nổi tiếng và ký tên lên đó để hưởng một chút lợi nhuận.
Danh Từ "Tango"
Người ta có thể tự đặt một câu hỏi về nguồn gốc của chính cái tên Tango . Câu trả lời sẽ rất khó khăn bởi vì mỗi người sẽ trả lời theo cách giải thích của chính họ. Trong thế kỷ thứ XIX ở Tây Ban Nha chữ Tango là để chỉ một cây gậy. Chữ này cũng hiện diện trong ngôn ngữ của một số nước Phi châu, chữ Tango cũng đã được ghi chép trong một số tài liệu Tây Ban Nha để nói lên nơi mà những người nô lệ da đen tụ họp tổ chức lễ hội. Một số người khác lại cho rằng chữ "Tango" do từ chữ "Tambor" tiếng Tây Ban Nha , cái trống , mà những người nô lệ da đen không tài nào phát âm cho đúng nên đã bị chuyển thành "Tango".
Từ Những Khu Ổ Chuột đầy Tiếng Xấu ...
Người ta khởi sự nhảy vũ điệu Tango ở ngoài đường phố (bị cấm bằng một sắc luật vào ngày 03 tháng 2 năm 1916 vì cản trở giao thông), trong các quán trà rượu và nhà thổ ở khu ổ chuột , do đó những điệu nhảy mới nhanh chóng liên kếtvới bầu không khí của những nhà chứa gái điếm vì những gái điếm và những người đàn bà dọn dẹp phòng ở đây là nữ giới duy nhất có mặt trong các buổi tụ họp ăn chơi giải trí này . Cái thế giới "đực rựa" bình dân, "đao to búa lớn", du côn ... đó đã tự nhiên dẫn tới những trường hợp mà những người đàn ông phải nhảy với nhau.
Thêm nữa, Tango được nhảy trong một cách rất là "vật chất", khiêu khích, rõ rệt ; và là một điệu vũ rất xa biệt với những thuần phong mỹ tục của giới trưởng giả ở Buenos Aires.
Dần dần theo thời gian , các ca khúc cũng xuất hiện để đệm theo điệu vũ. Tuy nhiên đa số lời của những ca khúc này lại rất trắng trợn tục tiễu và tựa đề của những ca khúc lại ẩn hiện mập mờ một sự tục tiễu nào đó như : "Con qué tropieza que no dentra", "Dos sin sacarla", "Siete pulgadas", "Qué polvo con tanto viento"... Chúng tôi xin dành sự phiên dịch này cho những người am hiểu về ngôn từ Tây Ban Nha hơn tuy nhiên để có thể có một chút về sự trắng trợn này người ta có thể tìm thấy trong một nhạc bản rất nổi tiếng: "El Choclo" , theo nghĩa văn chương là "bông bắp" nhưng phải hiểu theo sự tưởng tượng thật ẩn ý.
Trước khi xuất hiện trong các vũ trường lớn tại thế giới phương Tây, Tango được lưu truyền từ Argentine nơi chào đời bình dân của nó tới Paris, kinh đô ánh sáng , thủ đô của nước Pháp. Tại đây Tango đã bước lên tước vị một trong những vũ điệu quý tộc.
Nhưng làm thế nào để Tango đạt tới đỉnh cao như vậy ? Câu trả lời qủa thực vẫn còn rất khó khăn . Giới trẻ của xã hội thượng lưu ở Buenos Aires khác hẳn cha mẹ họ, họ đã dám tới những vùng bình dân ở lân cận thành phố để vui chơi, nhẩy múa; tán tỉnh một cô gái tại đây, một Milonguita (*), cũng đang chờ đợi điều này. Và để sáp lại với cô gái chưa quen biết này, chẳng có thứ gì khác hơn là Tango. Lẽ dĩ nhiên vào lúc đó thì những cô gái xuất thân từ những gia đình trưởng giả ở thủ đô Á Căn Đình vẫn chưa "thực hành" vũ điệu Tango vì vậy Tango vẫn độc quyền trong các khu bình dân ở Buenos Aires .
Paris thủ đô Ánh sáng và là tủ kính trưng bầy của Âu châu, của thời trang, chiếc nôi của những gì sang trọng. Tại Paris các ban nhạc nổi tiếng nhất đã trình tấu nhạc Tango trong các phòng trà cabarets, trong những điểm ăn chơi trứ danh gợi nhiều sự tưởng tượng của Paris như Folies Bergères, Montmartre hay Le Petit Parisien nơi đây tầng lớp trung lưu có thể tới ăn tối và thực hành vũ điệu Tango trong một khuôn khổ phù hợp với giới này hơn.
và một viện Tango đã được thiết lập tại Rue de la Faisanderie - Paris. Vũ điệu Tango nhờ thế đã lan tràn thực nhanh chóng khắp các thủ đô của các nước Âu châu và giới thượng lưu Argentine khởi sự quan tâm tới Tango.
và một viện Tango đã được thiết lập tại Rue de la Faisanderie - Paris. Vũ điệu Tango nhờ thế đã lan tràn thực nhanh chóng khắp các thủ đô của các nước Âu châu và giới thượng lưu Argentine khởi sự quan tâm tới Tango.
Sau khi đạt thành công ở Âu châu, Tango quay lại Buenos Aires, lẽ tất nhiên trong thế giới thượng lưu vừa thoát khỏi ách thống trị của người Tây Ban Nha với ước vọng muốn biến Buenos Aires trở thành một thủ đô Paris thứ hai ở Mỹ châu.
Không giống như Paris nơi mà các vũ công năm hoặc nữ đến tham dự duy nhất xuất thân từ tầng lớp trung lưu hoặc trưởng giả , các quán rượu ở Buenos Aires tập trung những khách đàn ông của giới trung hoặc thượng lưu trong lúc đó thì các vũ nữ đa số là những cô gái nghèo khó nhưng tài năng của họ đã biến họ thành những ""bà hoàng" ở các quán tiệm này - đây chính là những huyền thoại của "Milonguita (*)" , cô gái nhà nghèo được người ta trả tiền để nhẩy và được bao cho uống rượu sâm banh thả dàn, khoác áo lông thú và đeo đầy đồ trang sức , cô gái hy vọng sẽ tìm được một người đàn ông giàu có, người sẽ mang cô ta vĩnh viễn rời khỏi một trong những 2 462 "conventillos" mà cô đang phải sống ở đó. Người ta kể lại rằng những cô gái con nhà khá giả muốn tới những nơi này phải có sự hộ tống của các bà mẹ
Không giống như Paris nơi mà các vũ công năm hoặc nữ đến tham dự duy nhất xuất thân từ tầng lớp trung lưu hoặc trưởng giả , các quán rượu ở Buenos Aires tập trung những khách đàn ông của giới trung hoặc thượng lưu trong lúc đó thì các vũ nữ đa số là những cô gái nghèo khó nhưng tài năng của họ đã biến họ thành những ""bà hoàng" ở các quán tiệm này - đây chính là những huyền thoại của "Milonguita (*)" , cô gái nhà nghèo được người ta trả tiền để nhẩy và được bao cho uống rượu sâm banh thả dàn, khoác áo lông thú và đeo đầy đồ trang sức , cô gái hy vọng sẽ tìm được một người đàn ông giàu có, người sẽ mang cô ta vĩnh viễn rời khỏi một trong những 2 462 "conventillos" mà cô đang phải sống ở đó. Người ta kể lại rằng những cô gái con nhà khá giả muốn tới những nơi này phải có sự hộ tống của các bà mẹ
Tuy nhiên sự vinh quang của Tango cũng bị hoen ố vì sự bài bác của một tầng lớp những người chặt chẽ về nguyên tắc đạo đức. Những người phê phán, kiểm duyệt xuất hiện ở nhiều nơi. Ngay cả Giáo hoàng ở Vatican Pie X ,trước khi qua đời năm 1914, cũng ra lệnh ngăn cấm . Tiếp đó là Hoàng đế Đức và giới cao cấp trong triều đình. Tạp chí Tây Ban Nha "La Ilustración Europea y Americana" phán xét rằng vũ điệu Tango không chỉnh tề, qúa sỗ sàng với những điệu bộ lố bịch ghê tởm, vì vậy tất cả những người đứng đắn không thể để bị lôi cuốn bởi loại vũ điệu này được. .
Phán xét này được báo giới ở Anh quốc đồng loạt tán thành rồi tới lượt báo giới Đức và ngay cả Pháp . Mặc dù vậy, vũ điệu Tango vẫn chiến thắng cho dù hơi chậm : Giáo hoàng Benoît XV phục hồi danh dự cho Tango.
Xuất hiện những chiếc váy dành cho Tango, màu sắc của Tango, trà của Tango...và Tango là vũ điệu vua của các sàn nhảy ...
Thời Kỳ Vàng Son của Tango
Khởi đầu, những nhạc sĩ trong các ban nhạc chỉ gồm có 3 người - sáo, violon và guitare - họ chơi theo hứng của họ . Tiếp đó cây đàn dương cầm thay thế cho chiếc guitare và cây đàn bandonéon thay cho cây sáo. Trong hành lý của một chàng thuỷ thủ gốc Đức nào đó có một cây bandonéon ... cây đàn này đã chiếm ngự vị trí là một nhạc cụ không thể thiếu của Tango.
Theo lời thưật lại thì một người đánh xe ngựa công cộng đã xử dụng tại các khu "conventillos" để kiếm thêm chút tiền .
Năm 1913 những ban nhạc "orquesta tipica" được xuất hiện với 2 cây đàn bandoneons, 2 cây violons, 1 cây đàn bass và 1 cây đàn piano. Năm 1917 xảy ra một sự kiện quan trọng trong đà phát triển của Tango : hát Tango - qua giọng hát lừng danh của nhạc sĩ Carlos Gardel được mệnh danh là "The King of Tango" , người có công truyền bá Tango - Carlos Gardel sinh tại Toulouse Pháp năm 1890 , theo cha mẹ di cư tới Argentine khi mới được 3 tuổi và qua đời năm 1935 trong một tai nạn máy bay tại Colombia .
Tiếp đó là những năm 1920 tới năm 1935 : thời kỳ vàng son của Tango với những ca sĩ thành công khác như : Canaro, d'Arrienzo, Pugliese, Piazzola.
Theo lời thưật lại thì một người đánh xe ngựa công cộng đã xử dụng tại các khu "conventillos" để kiếm thêm chút tiền .
Năm 1913 những ban nhạc "orquesta tipica" được xuất hiện với 2 cây đàn bandoneons, 2 cây violons, 1 cây đàn bass và 1 cây đàn piano. Năm 1917 xảy ra một sự kiện quan trọng trong đà phát triển của Tango : hát Tango - qua giọng hát lừng danh của nhạc sĩ Carlos Gardel được mệnh danh là "The King of Tango" , người có công truyền bá Tango - Carlos Gardel sinh tại Toulouse Pháp năm 1890 , theo cha mẹ di cư tới Argentine khi mới được 3 tuổi và qua đời năm 1935 trong một tai nạn máy bay tại Colombia .
Tiếp đó là những năm 1920 tới năm 1935 : thời kỳ vàng son của Tango với những ca sĩ thành công khác như : Canaro, d'Arrienzo, Pugliese, Piazzola.
Subscribe to:
Posts (Atom)