'cookieChoices = {};'
Showing posts with label Tet. Show all posts
Showing posts with label Tet. Show all posts

Saturday, January 10, 2015

Lịch sử bút Caran d'Ache



Năm 1924, Arnold Schweitzer mua lại xưởng sản xuất bút Ecridor và đổi tên nó thành Caran D’Ache. Cái tên Caran D’Ache được ông lấy theo bút danh của họa sĩ châm biếm người Pháp Emmanuel Poire’, từ này trong tiếng Pháp có nghĩa là bút chì.

Năm 1929, Caran d’Ache giới thiệu chiếc bút kỹ thuật đầu tiên do Carl Schmid phát minh (bút chì kim chúng ta dùng ngày nay chính là hậu duệ của chiếc bút này). Chiếc bút mang lại tính cách mạng này lập tức được Caran d’Ache đăng ký độc quyền.

Mỗi sản phẩm của hãng đều được chế tạo thủ công tại nhà máy ở Geneve. Bút Caran d’Ache là sự kết hợp giữa bàn tay điêu luyện của các nghệ nhân và kỹ thuật sản xuất hiện đại. Về chất lượng bút viết của Caran d’Ache có thể miêu tả bằng cụm từ “Chất lượng Thụy Sĩ ".


Caran d’Ache Limited




Caran d’Ache Various






Caran d’Ache Leman


Caran d’Ache Madison



 
Caran d’Ache RNX.316



Caran d’Ache Ecridor



Caran d’Ache Office





Lịch Sử Bút Montblanc



Năm 1906, Wilhelm Dziambor - "cha đẻ" của chiếc bút máy Montblanc quyết định sản xuất và cung cấp bút máy Fountain. Đến 2 năm sau, ông bắt đầu hành trình đánh bóng thương hiệu bằng việc đưa lời tuyên bố hùng hồn: "Nhà sản xuất của những chiếc bút máy vàng cao cấp". Đến lúc này công ty non trẻ vẫn được gọi là Simplo Filler Pen. Cái tên "Simplo" được lấy từ chữ "simple" liên quan đến việc thiết kế cây bút máy mới với ống mực bơm bên trong.


Năm 1909, hãng cho ra đời cây bút máy đầu tiên Rouge et Noir được làm từ nhựa ebonite màu đen và màu đỏ trên đỉnh nắp viết. Ngoài ra, hãng còn đưa ra một lời hứa rất nhân bản trong một mẫu quảng cáo rằng:"Bạn sẽ chẳng bao giờ làm đổ bất cứ vết mực nào với cây bút máy Rouge et Noir". Câu nói này ngay lập tức đã thu hút sự chú ý của các cô gái thời đó, hứa hẹn họ sẽ rất an tâm khi đưa gắn cây bút này trên áo.

Ngay sau thành công của cây bút Rouge et Noir, Công ty Simplo Filler Pen nhanh chóng mở rộng ra thị trường nước ngoài. Văn phòng đại diện đầu tiên ở Paris, London và sau đó là Bercelona. Đến năm 1910 thì cái tên Montblanc chính thức ra đời trở thành một nhãn hiệu nổi tiếng sau này. Nhãn hiệu này ra đời từ ý tưởng "điểm trắng trên đỉnh nắp viết gợi cho chúng ta nhớ đỉnh núi bao phủ tuyết". Ngọn núi cao nhất tại châu Âu thường được coi là biểu tượng của những sản phẩm đạt chất lượng cao.


Sau đó, ngôi sao Montblanc trở thành biểu tượng của nhãn hiệu. Tất cả những cây bút máy do Công ty Simplo Filler Pen sản xuất đều có đính ngôi sao tròn cùng với biểu tượng đỉnh núi Montblanc.

Năm 1924, cây bút máy huyền thoại Meisterstuck với sự thiết kế hoàn hảo được tung ra, thành công khắp nơi trên thế giới và trở thành huyền thoại Montblanc. Thành công này đánh dấu chặng đường đầu tiên của Montblanc qua gần 20 năm.

Thời kỳ phát triển

Cuối những năm 1920, Montblanc được biết đến ở 60 quốc gia. Những chiến dịch quảng cáo ấn tượng, những chiếc xe hơi được trang trí với những cây bút máy khổng lồ và logo Montblanc ở phía trên đỉnh, những chiếc máy bay quảng cáo đầu tiên đã đưa tên tuổi Montblanc bay đến với công chúng.

Khi phát triển ở tầm cỡ quốc tế, hãng đã bắt đầu bảo hành vĩnh viễn sản phẩm Meisterstuck Montblanc. Montblanc thành công trong việc hoàn thiện sản phẩm viết bằng cách tiếp quản nhà máy sản xuất đồ da ở Offenbach (Đức).



Năm 1986, câu nói nổi tiếng "Montblanc nghệ thuật được viết" được tung ra và trở nên một kiểu mẫu cho nhiều nhãn hiệu sang trọng. Đến năm 1990, Montblanc mở cửa hiệu đầu tiên ở Hồng Kông. Từ đây, mạng lưới phân phối được lan rộng, tính đến nay Montblanc đã có hơn 130 cửa hiệu ở hơn 70 quốc gia.

Đa dạng hóa bằng nhãn hiệu trang sức, nước hoa


Năm 1995, bộ sưu tập đồ da lớn hiệu Meisterstuck những vật phẩm được thiết kế cho việc du lịch và kinh doanh được tung ra như một cuộc mở rộng quy mô dòng sản phẩm đồ da nhỏ. Sau đó, Montblanc đến với lĩnh vực trang sức một cách thành công với dòng sản phẩm Meisterstuck dành cho phái nam.






Về mảng nữ trang, Montblanc đã gây chú ý và được biết đến như một nhà nữ trang quốc tế hàng đầu khi tham dự triển lãm đồng hồ SIHH ở Gennava năm 1997.





Khi mở rộng sang lĩnh vực trang sức, Montblanc đã thực hiện triết lý: Montblanc là một nhãn hiệu của những vật phẩm tiêu chuẩn nhất, đại diện cho vẻ thẩm mỹ bất tận. Các sản phẩm thể hiện sự khéo léo,tinh xảo mang vẻ đẹp thuần thúy. Nó có giá trị bất tận và ý nghĩa nhân sinh, phát triển để trở thành một phần của hình ảnh con người, toát lên một phong cách riêng cho những ai sử dụng. Những sản phẩm công phu, được gìn giữ và truyền lại cho thế hệ sau. Nó thể hiện thế giới xúc giác, đi ngược hẳn với sự sôi nổi của ngày hôm nay.

















Gã khổng lồ Montblanc không dừng lại ở đó. Các dòng sản phẩm nước hoa dành cho cả nam lẫn nữ như Presence, Presence Cool, Individuel, Femme Individuelle... đã trở thành một phần không thể thiếu trong của đẳng cấp sang trọng, phong cách, và đầy cảm xúc.







Lịch sử bút Parker


George Safford Parker được sinh vào ngày 1 tháng 11 năm 1863 ở Shullsberg, Wisconsin.Cha mẹ ông, Norman Parker và Jane Parker là những thành viên có ảnh hưởng tới sự nổi bật của thị trấn Shullsberg. Gia đình Parker trước đó đã di chuyển từ phía tây nước Anh và định cư ổn định ở Illinois . Khi Mary và Norman kết hôn 


vào năm 1847, họ chuyển tới Wiscosin . Sau khi sinh tám đứa trẻ, họ lần lượt chuyển đi vào năm 1871 tới gần Fayettee ở Iowa .

Như mọi đứa trẻ, George đi theo cha để giúp đỡ hay đi nhà trẻ . Tuy nhiên, vào những ngày mùa đông, ông thường xuyên tham dự những lớp học tại trường học địa phương. Nhưng đến khi lớn lên, ông nhận ra rằng ông không phù hợp với cuộc sống nghề nông, và sự quan tâm của ông khi ấy là công nghệ và du lịch. Ông bắt đầu tham dự vào trường đại học Iowa gần Fayette, và sau đó, sau khi nhìn thấy một quảng cáo về môn điện báo của trường Valentine ở Janesville, một lần nữa ông đóng gói hành lý và chuyển tới Wiscosin.

Sau khi tốt nghiệp, và trong khi dậy môn điện báo địa phương. Parker làm thêm một nghề phụ là làm đại diện cho hãng bút John Holland Fountain. Ông bán những chiếc bút này chủ yếu cho sinh viên của mình, nhưng nó hiển nhiên không được tin tưởng và hay bị tắc mực. Chúng thường hay ra quá nhiều hay ít mực, và George sớm nhận ra rằng ông đang tiêu phí thời gian để bán những chiếc bút này. Nhưng kết quả những sinh viên của ông lại tin cậy dịch vụ sau bán hàng của ông. Và số lượng bút của ông bán ra đạt đến sản lượng cố định. Ông không hài lòng như vậy. Sau đó, ông quyết định ông sẽ thiết kế một cái bút tốt hơn.


Vào ngày 10, tháng 12, năm 1889, George Parker có được cho mình bằng sáng chế cho một cái bút mực của ông. Ông tiếp tục phát triển những chiếc bút, và trong tám tháng, ông có được thêm hai bằng sáng chế nữa cho những chiếc bút được cải thiện ở phần dưới. Vào năm 1892, George hợp thành một nhóm với những người bạn của ông, làm bảo hiểm cho công nhân William F Palmer, và công ty bút Parker chính thức được ra đời.


Những đối tác ngày càng tăng trong vài năm sau đó, những cái bút của họ tiến bộ và phát triển với tốc độ chóng mặt. Tới năm 1893, họ được cấp bằng sáng chế cho vật liệu khác, thời gian nay người đi trước nổi tiếng với chiếc bút Lucky Curve, được cấp bằng sáng chế vào năm 1894.Khi thiết kế ngăn chứa mực được đun bởi thân nhiệt đang rỉ ra và làm bấn ngón tay, Lucky Curve đã muợn tính mao dẫn và sử dụng mực từ ống dẫn vật liệu. Sự tiến bộ kỹ thuật này đi theo phát minh của họ với bút Joinless và nắp ngoài thích hợp hơn.


Vào năm 1898, họ thiết kế lại Lucky Curve như một chiếc bút dáng thuôn, làm cho nó trở nên thuôn và lôi cuốn hơn, và năm 1899, công ty Parker đã thành công khi bán cho cả quần chúng lẫn lực lượng vũ trang. Cùng với sự quay của thế kỷ. những chiếc bút nhanh chóng trở thành biểu tượng cho xã hội, và công ty cứ thể phát triển đều đều.Chỉ người được đào tạo mới có thể đọc và viết sao cho chiếc bút mực tạo ra được một uy thế rõ ràng của một người được đào tạo. Ngòi bút dáng thuôn bằng vàng đã được trưng bày, và người dân đãỉ muốn những chiếc bút của họ không chỉ để trưng, mà trưng thì giá thành của nó khá đắt. Hàng bán của Parker ngày càng lớn, do được các chiến dịch quảng cáo rầm rộ. Giữa năm 1900 và 1915, Parker đã mạ vàng, bạc, ngọc trai lên những chiếc bút. Đồng tiền trên thị trường ngày càng đạt giá cao, nên họ đã tạo ra loại bút Snake Pen thần kỳ. Nó được làm bằng cao su cứng màu đen và giọt nước mắt đấy, được có hình một đồng bẳng Anh mạ bạc hay bịt vàng xung quanh thân bút và nắp. Những con rắn này có đôi mắt được đính hồng ngọc hoặc ngọc bích. Và nó trở thành những chiếc bút được ưa thích của những người có thu nhập cao.


Trong suốt thời gian này Parker cũng phát triển thương hiệu của ông, cải tiến những đường cong cũ của chiếc bút, và cấp bằng sáng chế cho những chiếc nắp an toàn có thanh kẹp. Tất cả những sáng kiến mới cho phép công ty mở rộng nhiều hơn, và vào năm 1903 distributorship hải ngoại đầu tiên được thiết lập ở Scandinavia, với một người chủ cửa hiệu Copenhagen tranh thủ mang tới những chiếc bút.

Năm 1906, chiếc bút Emblem, chiếc bút mẫu đã đưa chi nhánh (bộ phận) Corporate Markets phát minh và mang cái logo đầu tiên của xã hội thời đó, chẳng hạn, hội hiệp sĩ của Colungbus. Ngày nay, công ty đã có hơn 60.000 biểu tượng là đại diện cho các loại quà tặng của các doanh nghiệp từ nhỏ cho đến những công ty đa quốc gia, và thậm trí có thể chuyển cả một bức ảnh lên trên thân bút. Vào năm 1927 công ty đã giành được hợp đồng từ Ban chiến tranh Mỹ. Họ phát triển những chiếc bút mà làm nổi bật viên mực màu đen hoà với nước, đưa cho những người lính Mỹ làm mực xách tay. Trong thời gian chiến tranh nhiều người lính và những người Châu Âu lần đầu tiên nhìn thấy những chiếc bút đã đánh giá rất cao. Năm 1918, số lượng hàng bán ra đã vượt qua ngưỡng 1 triệu USD, vì thế công Ty bắt đầu làm việc ở toà nhà ở Janesville để phát triển công việc kinh doanh. Kenneth, con trai út của George theo bước anh trai vào làm việc tại công ty, sau một năm làm tại Lioyd và hãng quảng cáo Thomas. Thời gian từ năm 192 đến 1940 là thời đại vàng trong sự nghiệp phát triển bút, với những tiến bộ trong giáo dục, và tỷ lệ biết viết và đọc ngày càng tăng, Parker tiếp tục phát triển.





Parker đã là một huyền thoại suốt hơn 1 thế kỷ đối với nhiều người cũng như cách họ viết nên câu chuyện của chính mình.

125 năm đã trôi qua kể từ tầm nhìn chiến lược của George Safford Parker ở tuổi 25, giáo viên ngành điện báo, ông nhận thấy thất vọng với bút bị rò rỉ và quyết định thành lập công ty viết Parker. Vững tin rằng "Sẽ luôn có thể tạo ra một cây viết tốt hơn", George S. Parker đã thiết lập lộ trình cho một chặng đường dài của bước đột phá đổi mới công nghệ, thành lập công ty Parker như là một trong những thương hiệu bút tốt dẫn đầu thế giới.

Friday, January 9, 2015

Ý NGHĨA 3 CHỮ PHÚC - LỘC - THỌ


Phúc, Lộc, Thọ (còn được gọi là Tam đa) là lời chúc đã có từ lâu đời và còn tồn tại cho đến ngày nay. Cứ mỗi độ Xuân về Tết đến, chúng ta thường thấy ba chữ Phúc-Lộc-Thọ trên các thiệp chúc Tết, các bức hoành phi, tờ lịch đầu năm, các cửa tiệm buôn bán...
Trong ngành gốm mỹ thuật, người ta chạm nổi hình ông Phúc bế đứa nhỏ; ông Lộc mặc phẩm phục đeo đai, trên đầu đội mão cánh chuồn; còn ông Thọ người thấp lùn, đầu nhẵn bóng u lên, tay chống gậy, tay cầm quả đào. Cả ba ông nét mặt hồng hào phúc hậu, chòm râu lất phất, tươi cười.
Bên cạnh các hình tượng trên, còn có một ý nghĩa ẩn dụ khác: con dơi, trong tiếng Hoa gần như đồng âm với chữ Phúc (chữ Hán: biển bức), Lộc là con nai (đồng âm), còn Thọ thì dùng chữ Hán cách điệu hóa trong vòng tròn hoặc cây Tùng gốc cằn cỗi, nhưng cành lá xum xuê; cây Tùng với con nai đã là Thọ, Lộc với con dơi bay trên cao có khi còn có thêm hai đồng tiền “Song tiền” đọc gần như Song Toàn. Vậy nên, cuối cùng chính là Phúc - Lộc - Thọ Song Toàn.
Cầu Phúc là để mong được đông con, nhất là con trai để nối dõi, trông coi tài sản, ruộng vườn, bởi vì ngày xưa chỉ có con trai mới được phép đi thi đỗ đạt làm quan. Đối với những gia đình nghèo, đông con thì mỗi đứa con trai là một thành phần lao động quan trọng, cày cuốc ruộng vườn. Có nhiều con, khi về già cha mẹ được yên tâm vì có người trông nom chăm sóc lúc đau ốm.






Lộc là bổng lộc, quan tước của triều đình. Trong một nước nông nghiệp, đất chật người đông, người có ruộng nương hiểu rằng đến đời con đời cháu, gia tài của cải đem chia cho con, nhiều lắm mỗi đứa chỉ được cái nền nhà. Do vậy, người ta quan niệm chỉ có lối thoát duy nhất là lo học hành, đỗ đạt ra làm quan, hưởng lộc vua ban.







Thọ là sống lâu như loài hạc, loài rùa, như cây tùng, cây bách. Khoảng từ bốn mươi tuổi trở đi là đã bắt đầu mừng thọ, người ta gọi là mừng Tứ tuần (40 tuổi), Lục tuần (60 tuổi) cứ thế mà đếm tới.
Nói chung, lời chúc Phúc-Lộc-Thọ ngày nay đối với mọi người vẫn là một lời chúc bao hàm nhiều ý nghĩa tốt đẹp. Và là một lời ước mà mọi người vẫn đi tìm, chờ đợi vào mỗi độ Xuân về Tết đến.


Lì xì !!!!



Quanh chuyện "lì xì" ngày Tết bằng tiền và bằng... chữ! Nghe hai tiếng "lì xì" người ta liền tưởng tới bao giấy màu đỏ, nho nhỏ bằng phần tư trang giấy học trò, bên trong có xếp mấy tờ tiền mới. Vậy hai tiếng "lì xì" ở đâu ra?
Nguồn gốc của nó thế nào?  Hai chữ "lì xì" tựu trung là "tiền mừng tuổi".




Con cá đọc tiếng Tàu là [dũy] đồng âm với chữ DƯ = dư dật / thừa thãi. Do đó, tranh tết vẽ con cá là để chúc nhau có của cải dư dật.


Lì xì nhằm cầu chúc người nhận gặp may mắn, phát đạt. Thường người Tàu bỏ tiền vào bao giấy màu đỏ. Người Việt Nam ta cũng làm tương tự, phổ biến ở miền Nam ngày Tết. Ở miền Trung thì ông bà cha mẹ, người tôn trưởng cho con cháu tiền mới vào dịp Tết gọi là "tiền mừng tuổi". Không chỉ người lớn mừng tuổi con cháu, mà hồi xưa, con cháu phải mừng tuổi ông bà trước. Qua giao thừa, tới sáng sớm mùng một, con cháu bảo nhau tới nhà thờ để chúc Tết và lạy mừng ông bà, cha mẹ. Không chỉ lạy suông, cũng không thể muốn lạy mấy lạy thì lạy, mà theo nhà văn Toan Ánh, chỉ lạy... hai lạy rưỡi. 
Lạy xong con cháu phải biết "thơm thảo" với đấng sinh thành bằng cách cung kính dâng lên những thứ bánh trái tươi ngon và một phong giấy hồng: Bên trong phong giấy thẳng thớm này có đặt một món tiền, để lên khay tươm tất và hoan hỷ, xin các cụ nhận cho, đó là "tiền mở hàng". Tiền này không nhằm để cất cho nặng hầu bao, mà ngụ ý cầu chúc các cụ quanh năm sung mãn, may mắn. Tục mừng tuổi nay còn đó. 
Ông bà, cha mẹ, chú bác, cô dì, cậu mợ lì xì lớp cháu, con. Bằng hữu thân quyến tới nhà ai chúc Tết lì xì trẻ con của nhà đó. Hoặc chủ nhà đón khách tới chúc Tết lì xì trẻ em đi theo khách. Ý nghĩa chính không nằm ở "tiền" mà ở "tình", tức ở lòng mong ước cầu chúc các cháu hay ăn chóng lớn, vui chơi, học hành tấn tới, còn phong bì nặng nhẹ nhiều ít (tiền) không phải là điều đáng để tâm lắm. Thậm chí không có một cắc bạc mà chỉ có... chữ. Chữ viết rõ to, đậm nét để "làm quà" mừng tuổi như chuyện dưới đây.





Xưa, có một nhà nọ, nghèo quá, sinh ba đứa con trai. Tết đến người cha không có tiền để lì xì. Chiều ba mươi, ông nghĩ ra một cách, lấy giấy đỏ làm 3 cái phong bì, bề ngoài trông thẳng thớm tươi tắn đỏ thắm như các phong lì xì khác. Nhưng bên trong không bỏ tiền, mà thay bằng 3 miếng giấy được ông viết 3 chữ nắn nót: Phước - Lộc - Thọ. 
Qua sáng mùng một, người cha gọi 3 đứa con trai đến trước bàn thờ, xoa đầu chúng, tươi cười mừng tuổi chúng bằng 3 cái phong bì nhẹ hẫng, sau khi đã giải thích Phước là gì, Lộc là gì, Thọ là gì... Qua Tết, bước vào năm mới, chẳng ngờ nhà ông phát tài, tiền vô như triều cường. 
Thoắt cái, lại tới ba mươi tháng chạp. Ý chừng nhớ lại Tết xưa nghèo thiếu, đạm bạc, ông định bụng sẽ tái diễn cách "lì xì" bằng chữ để ba đứa "Phước Lộc Thọ" đừng bao giờ quên rằng, chúng đã được ăn no mặc ấm từ một quá khứ đói rách gần đây. Ai đời, khi nhận phong bì xong, ba đứa con bóc ra, mỗi đứa đều thấy vỏn vẹn chữ Phước, còn hai chữ Lộc Thọ biến đâu mất. 
Người cha cũng ngạc nhiên không kém. Bốn cha con đang phân vân, bỗng một người từ đâu đến bảo: "Ta là phúc thần của đất này. Chữ Phước đó do ta ban cho. Chỉ cần có nó cũng gồm đủ cả ba: phước, lộc, thọ, vì có phước mới hưởng được lộc, mới thọ lâu. Vì thế chẳng cần phải cầu lộc, cầu thọ, chỉ một chữ phước để mừng tuổi đầu năm là đủ". Nói rồi, biến mất. Nhìn lại phong lì xì, cả bốn cha con sửng sốt một lần nữa vì chữ phước cũng biến mất luôn, trên mặt giấy trống trơn, trắng toát.

Bấy giờ vị thần thứ hai hiện ra kể cho bốn cha con nghe một chuyện mừng tuổi xa xưa. 
Đó là câu chuyện nổi tiếng khắp châu Á, loan truyền qua Tây Tạng và dãy Hy Mã Lạp Sơn, đến cả lưu vực sông Hoàng Hà, Dương Tử của Trung Quốc, du nhập vào Việt Nam từ lâu đời, về một người cầu phước được phước, trở nên giàu có nhưng hết sức keo kiệt.
 Ông ta quên những điều tốt đẹp, những ban phát ngọt ngào, rộng lượng mà mình đã làm ở tiền kiếp, vì vậy một mực thâu góp vàng ngọc về riêng mình, trong kiếp này, bỏ vào chiếc hũ, đem chôn ở một vị trí bí mật trong nhà không cho ai hay. 
Ngay cả con trai của ông cũng không được biết nơi cất giấu. Về già, ông ngã bệnh. Khi chết, linh hồn ông bị hũ vàng ám ảnh, đã quay lại nhà cũ, tìm cách chui vào xác chết cứng lạnh của mình, nhưng bất lực. Thấy vậy, một con chó gần nhà có linh tính đã nhường thể xác hèn mọn của mình cho kẻ giàu có kia trú vào, rồi bay lên không trung thoáng đãng.
 Còn ông nhà giàu thay thế làm chủ thể xác của con vật bốn chân, thỏa mãn được "sống" lại, dầu với tấm thân thuộc hàng súc sinh như chó. Con chó đó lạ thay suốt ngày không đi đâu cả, cứ nằm lì trước hiên. Mà chỉ nằm ở một nơi nhất định sát cửa ra vào. Hễ người con (bây giờ đã là chủ nhà) đuổi đi, một lát không lâu nó lại quay về chỗ cũ, cứ như rời chỗ ấy là nó rời sự sống của nó vậy. Các phước quả mà nó hưởng là hũ vàng ngọc, giờ đây trở thành điều vô phước cột chặt nó vào tham si. 
Ngày nọ, một đại sư ngang qua, nói với đứa con: "Này anh kia, anh có biết con chó đó là ai không?". "Dạ thưa không". "Ta nói cho biết, nó chính là cha của ngươi. Vì sao nó nằm lì suốt ngày đêm ở khoảnh đất sát cửa đó? Ấy là vì nó luyến tiếc của cải chôn dưới đất. Hãy đào lên". Người con lấy làm lạ, cho đào thử chỗ con chó thường nằm, thì quả nhiên thấy hũ vàng bên dưới. Bị rúng động vì việc này, người con tỉnh ngộ, từ chối sở hữu số vàng, rời nhà theo vị đại sư lên núi, về sau trở thành một trong những vị tổ đầu tiên của lịch sử Thiền tông. 
Vị này tỉnh ngộ rằng: nếu làm phước, được phước mà thiếu huệ tức trí huệ sẽ trở nên nguy hiểm ngu si như con chó kia vậy. Được phước, thiếu huệ, thì như nằm trên đống vàng, đống ngọc mà vẫn khổ đau, thiếu thốn, phiền bực. Kể xong, vị thần bảo: "Đó là lý do vì sao ta phải xóa trắng chữ phước trong bao lì xì mừng tuổi của các ngươi. Nó chỉ có ý nghĩa tốt đẹp nếu sinh đôi cùng huệ, bằng không chỉ là động lực cho những cuộc thăng trầm bất tận. Giờ đây ngươi hãy nhìn xem".

Bốn cha con thấy trên bao lì xì hiện lên hai chữ Phước Huệ. Hai chữ này để mừng tuổi cho mọi tâm hồn đã đi qua mùa đông để mở đầu một năm mới thăng hoa.





Hestia - Thần Bếp Hy Lạp


 
Nhắc tới thần thoại Hy Lạp, người ta nghĩ ngay tới Zeus, Hera, Apollo… chứ ít ai biết rằng, trong số 12 vị thần của đỉnh Olympus, chính thần Hestia mới là vị thần "có vai vế" nhất. Đây là nữ thần của bếp lửa, thuộc dòng dõi Titan, tức là chị cả của thế hệ các vị thần thứ nhất như Zeus, Hades, Poseidon…

Xem các Táo quân phiên bản Việt Nam, Hàn Quốc, Hy Lạp 7
Theo truyền thuyết, Hestia là con của Rhea và Cronus. Tuy nhiên, Cronus có "sở thích" đáng sợ là nuốt tất cả các đứa con của mình. Do đó, Zeus, Poseidon và Hades đã hợp sức tiêu diệt cha mình, cứu thoát các anh chị em khác. Sau trận chiến, Cronus bị tiêu diệt, người mà thần này nôn ra cuối cùng chính là Hestia.



Hestia là nữ thần của đạo đức, sự tôn trọng, tốt bụng và thiện chí. Sau này, thần được giao trông coi ngọn lửa thiêng của đỉnh Olympus cũng như trở thành nữ thần bảo hộ cho xứ Mazonala.

Xem các Táo quân phiên bản Việt Nam, Hàn Quốc, Hy Lạp 9
Chân dung tượng nữ thần Hestia.
Các câu chuyện đều miêu tả Hestia với những ngôn từ rất hoa mĩ. Bà tài giỏi, khéo léo, hay cứu giúp người thường và được mọi người yêu quý. Tại đền thờ sảnh lớn ở Minoan-Mycenaean, người dân thờ Hestia với tư cách Thần Bếp sưởi ấm cho mọi người vào những ngày đông lạnh giá. 

Ông Đầu Rau





SỰ TÍCH ÔNG ĐẦU RAU



Tại sao ông Đầu Rau lại có vị trí quan trọng trong tín ngưỡng của người Việt đến thế? 
Tích xưa kể rằng cặp vợ chồng Trọng Cao và Thị Nhi lấy nhau đã lâu mà chưa có con nên sinh ra cãi vã khiến Thị Nhi bỏ nhà ra đi. Nàng gặp và kết duyên cùng Phạm Lang. Trọng Cao hối hận đi tìm, vì túng đói mà phải xin ăn. Một hôm tình cờ Trọng Cao đến xin tại nhà Thị Nhi, nàng nhận ra chồng cũ, làm cơm thết đãi và giấu chồng trong đống rơm bên nhà. Vô tình Phạm Lang đốt rơm bón ruộng, lúc ngọn lửa đang cháy, Thị Nhi bèn nhảy vào chết cùng Trọng Cao. Phạm Lang thấy thế cũng nhảy vào cùng vợ.


Câu chuyện cảm động đến tai Ngọc Hoàng ngài bèn cho họ làm vua bếp: Phạm Lang là Thổ công trông nom việc trong bếp; Trọng Cao là Thổ địa trông coi việc trong nhà; Thị Nhi là Thổ kỳ trông nom việc chợ búa. Ba vợ chồng được hóa làm ba ông Đầu Rau mãi mãi bên nhau.


Kể từ đó, 23 tháng Chạp hàng năm, dân ta đều cúng cá chép vàng làm lễ tiễn ông Công lên trời để dâng tấu Ngọc Hoàng, “quẳng” đầu rau cũ xuống ao, thay đầu rau mới để việc gia đình, chợ búa trong năm mới được thuận lợi.

VỊ THẦN "GIỮ LỬA "





Xem các Táo quân phiên bản Việt Nam, Hàn Quốc, Hy Lạp 2Nếu trước đây, Đầu Rau của người Việt chỉ là bếp ba chân đun bằng rơm rạ thì cùng với sự phát triển, bếp đã không còn là “công trình phụ” nữa. Thay vào đó, bếp luôn được chăm chút bởi đó là nơi thường xuyên lui tới của mọi thành viên trong gia đình.

Dân gian có câu “Lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng Nam”, làm nhà hướng Nam là lẽ đương nhiên thì căn bếp nhỏ ngay sát nhà bao giờ cũng có hướng Tây vừa để tránh gió cũng vừa là hướng vào ngôi nhà cho ngọn lửa thêm ấm cúng.


Không gian của bếp tưởng chừng chỉ là chốn dành cho các bà nội trợ nhưng thực chất đó lại là không gian chung của gia đình. Đó là nơi ươm mầm tình cảm, nơi kẻ dưới cung kính người trên thông qua lời mời trang trọng trước mỗi bữa ăn, là nơi đứa con thơ kể bố mẹ nghe câu chuyện hàng ngày ở trường lớp, người mẹ đảm đang truyền dạy con gái bí quyết nấu ăn trước khi về nhà chồng…. Ngọn lửa hạnh phúc ấy cứ thế lớn dần từ căn bếp nhỏ trong mỗi ngôi nhà.

Táo Quân




Táo Quân được các gia đình cúng lễ quanh năm, vào các dịp sóc, vọng thường hương hoa oản quả. Những dịp lễ tết giỗ chạp hay có công to việc lớn trong nhà có thể cúng chay hoặc cúng mặn tuỳ nghi. Dịp lễ long trọng nhất dành riêng cho Táo Quân chính là tết ông Công ông Táo vào 23 tháng chạp. Theo tín ngưỡng cổ truyền, đây là ngày Táo Quân lên trời báo cáo Ngọc Hoàng Thượng đế những điều tai nghe mắt thấy ở trần gian, những hành vi, việc làm tốt, xấu của các thành viên trong gia đình trong năm một cách khách quan, trung thực. Phương tiện để Táo Quân lên trời là cá chép vàng. Tết ông Công ông Táo làm to nhỏ, chay mặn tùy khả năng mỗi gia đình, nhưng dứt khoát phải có bộ mã Táo Quân mới. Sau khi cúng Táo Quân, người ta hóa mã, đồng thời hóa cả bộ mã năm trước.

Lễ cúng Táo Quân ngày 23 tháng Chạp được coi là mang tính cách chuyển giao năm cũ, đón chào năm mới. Người ta chuẩn bị chu đáo cho chiều 30 là thời điểm đón ông Công ông Táo trở về trần gian làm nhiệm vụ năm mới. Ban thờ Thổ Công thường bày biện khá đơn giản gồm bộ 3 chiếc mũ. Chiếc mũ ở giữa là mũ đàn bà, hai bên là mũ đàn ông. Bộ mũ (dù ba chiếc hay một chiếc) đều kèm theo chiếc áo và đôi hia đính vào bệ giấy hoặc khi cúng được kê trên bệ là vài trăm thoi vàng mã.




Hình ảnh Táo Quân - vua bếp cũng trở nên gần gũi với cuộc sống hiện đại hơn với quan niệm gia đình nào được Táo Quân phù hộ nhiều thì hạnh phúc, yên ổn, thành đạt, bếp đỏ lửa mỗi ngày. Những gia đình không có điều kiện đỏ lửa mỗi ngày để ông vua bếp làm nhiệm vụ thì ngầm hiểu là Táo Quân chưa hoàn thành nhiệm vụ giữ gìn tổ ẩm gia đình một cách trọn vẹn.






Lễ vật cúng Táo Quân gồm có: mũ ông công ba cỗ hay ba chiếc (hai mũ đàn ông và một mũ đàn bà). Mũ dành cho các ông Táo thì có hai cánh chuồn, mũ Táo bà thì không có cánh chuồn. Những mũ này được trang sức với các gương nhỏ hình tròn lóng lánh và những giây kim tuyết màu sắc sặc sỡ. Để giản tiện, cũng có khi người ta chỉ cúng tượng trưng một cỗ mũ ông công (có hai cánh chuồn) lại kèm theo một chiếc áo và một đôi hia bằng giấỵ Màu sắc của mũ, áo hay hia ông công thay đổi hàng năm theo ngũ hành

Những đồ "vàng mã" này (mũ, áo, hia, và một số vàng thoi bằng giấy) sẽ được đốt đi sau lễ cúng ông Táo vào ngày 23 tháng Chạp cùng với bài vị cũ. Sau đó người ta lập bài vị mới cho Táo Quân.

Theo tục xưa, riêng đối với những nhà có trẻ con, người ta còn cúng Táo Quân một con gà luộc nữa. Gà luộc này phải thuộc loại gà cồ mới tập gáy (tức gà mới lớn) để ngụ ý nhờ Táo quân xin với Ngọc Hoàng Thượng Đế cho đứa trẻ sau này lớn lên có nhiều nghị lực và sinh khí hiên ngang như con gà cồ vậy!

Ngoài ra, để các ông và các bà Táo có phương tiện về chầu trời, ở miền Bắc Việt Nam người ta còn cúng một con cá chép còn sống thả trong chậu nước, ngụ ý "cá hóa long" nghĩa là cá sẽ biến thành Rồng đưa ông táo về trời. Con cá chép này sẽ sau đó được "phóng sinh" (thả ra ao, hồ hay sông). Tại miền Trung, người ta cúng một con ngựa bằng giấy với yên, cương đầy đủ. Ở miền Nam thì giản dị hơn, người ta chỉ cúng mũ, áo và đôi hia bằng giấy.

Tùy theo từng gia cảnh, ngoài các lễ vật chính kể trên, người ta hoặc làm lễ mặn (với xôi gà, chân giò luộc, các món nấu nấm, măng...v...v) hay lễ chay (với trầu cau, hoa, quả, giấy vàng, giấy bạc..v...v..) để tiễn Táo Quân.

Sự tích Táo Quân bắt nguồn từ Trung Hoa, cho nên truyện đã được "Việt Nam hóa" với nhiều tình tiết khác nhau. Tuy nhiên, các câu truyện vẫn nói lên "tình nghĩa yêu thương" giữa một người vợ và hai người chồng cũ và mới. Chính vì những mối ân tình đó mà ba người đều đã quyên sinh vì nhau... Thượng đế thông cảm mối tình sâu nghĩa đậm này đã cho về bếp núc ở gia đình... Bài vị thờ vua Bếp thường được ghi vắn tắt là "Định Phúc Táo Quân" nghĩa là thần định mọi sự hạnh phúc.

Tết Nguyên Tiêu



   Tết Nguyên Tiêu - Rằm tháng Giêng - đêm Rằm thứ nhất trong năm. Đêm trăng tròn đầu tiên của năm mới theo Âm lịch. Đêm trăng sáng khởi đầu của một năm mới, với hương khí tinh nguyên của tiết trời ấm lành, tràn đầy sức sống mùa xuân. Rằm tháng Giêng mang ý nghĩa lớn nhất là cầu phúc, đặc biệt là Phật tử, thường viếng chùa lễ Phật cầu gia đạo bình an, quốc thái dân an, trong năm mưa thuận gió hòa, làm ăn xuôi chèo mát mái.
   Tết Nguyên Tiêu còn gọi là Thượng nguyên. Gọi thượng nguyên là cách phân chia theo Âm lịch: thượng nguyên (Rằm tháng Giêng), trung nguyên (Rằm tháng Bảy) và hạ nguyên (Rằm tháng Mười) của hệ thống lịch tính theo mặt trăng.



   Dân ta có câu:
   Lễ Phật quanh năm không bằng Rằm tháng Giêng.
   Giỗ tết cả năm không bằng ngày rằm tháng Giêng.
   Điều này nói lên tầm quan trọng của hội rằm tháng Giêng, hay còn gọi là Tết Nguyên tiêu trong tâm thức người Việt.
   Trước đây lễ rằm tháng Giêng thường gọi là Tết muộn, những gia đình khá giả tiếp tục ăn Tết và chơi mai, đào nở muộn. Những người đi làm ăn xa ở lại qua ngày rằm tháng Giêng mới lên đường. Vì vậy, từ lâu trong tâm thức người Việt, rằm tháng Giêng đã có ý nghĩa không khác gì ngày Tết Nguyên đán.
  
tnt2

Tết Nguyên Tiêu là một trong những ngày tết truyền thống của Trung Quốc, cũng là ngày cuối trong cả dịp Tết Xuân. Tết nhằm ngày Rằm tháng giêng là đêm trăng tròn đầu tiên trong năm mới theo Âm lịch. Đêm hôm đó, ở Trung Quốc có tục reo thả hoa đăng, vì vậy Tết Nguyên Tiêu còn gọi là tết “Hoa Đăng”.
Ở Việt Nam ta, Rằm tháng Giêng hiểu một cách đơn giản là ngày Rằm lớn. Ngày này có 3 lễ cúng: Một là lễ cúng khởi năm đón lộc cầu may. Hai là Tết ăn lại (Tết bù) cho nhà nào dịp Tết Nguyên đán có người đau yếu, tang ma không kịp ăn Tết, nay khỏe mạnh trở lại, mọi người thư thả thì ăn bù, đi chúc Tết lại nhau một cách cởi mở, không phải kiêng khem gì. Trước đây Rằm tháng Giêng còn thường gọi là Tết muộn, để những nhà khá giả tiếp tục ăn Tết, thưởng mai - đào nở muộn. Lễ thứ 3 là cúng sao giải hạn .
Rằm tháng Giêng là ngày đức Phật giáng lâm tại các chùa, nhiều chùa lập đàn Thất châu Dược sư, khai kinh và tụng kinh Dược Sư khuyên các Phật tử cùng tụng niệm hồi hướng công đức để thế giới được an lành, chúng sinh an lạc. Với một số nhà tâm linh, ngày này còn là ngày vía thiên quan nên các đền chùa làm lễ cầu an , dâng sao giải trừ tai ách cho năm mới. Do đó, từ sau Tết Nguyên đán, ngày 14, hoặc chính Rằm người dân đã tấp nập đến chùa lễ Phật, cầu bình an, khỏe mạnh, hạnh phúc… cho cả năm.