'cookieChoices = {};'
Showing posts with label Sửa chữa xe hơi. Show all posts
Showing posts with label Sửa chữa xe hơi. Show all posts

Monday, December 1, 2014

Máy sưởi trong xe không thổi đủ hơi nóng



1. Không đủ nước coolant

Vì máy sưởi sử dụng cùng một dòng nước coolant của đầu máy, nên nguyên nhân phổ thông nhất khiến máy sưởi không đủ hơi nóng là vì hệ thống thiếu nước coolant. Vì thế việc làm đầu tiên là phải xem nước coolant có đủ không.

Cách kiểm tra mực nước coolant:
Khi kiểm tra mực nước coolant, chúng ta thường chỉ mở nắp két nước (Radiator), và thấy coolant đầy lên tới miệng là yên trí. Nhưng như vậy là không đúng. Muốn biết coolant đủ hay thiếu thì phải xem ở bình Reservoir (bình dự trữ) gắn ở bên cạnh két nước lớn. Ðây là một bình mủ trong, có ghi 2 vạch MAX (tối đa) và MIN (tối thiểu). Trước khi kiểm tra, nhớ đậu xe ở một địa điểm thăng bằng, để cho máy xe nguội hẳn, rồi lật Hood (nắp đậy đầu máy) lên. Xem mực nước trong Reservoir thế nào:
-Nếu thấy nước còn cao hơn vạch MIN, và thấp hơn vạch MAX, thì nguyên nhân thiếu Heat không phải ở đây.

-Nếu coolant thấp hơn vạch MIN thì đổ coolant vào đây cho lên tới vạch MAX; nhưng nguyên nhân cũng chưa phải ở đây.

-Nếu thấy reservoir không còn tí coolant nào, thì có thể đây chính là nguyên nhân dẫn đến thiếu Heat. Nhưng còn phải kiểm tra két nước chính. Nếu coolant trong két nước chính chưa đầy lên tới miệng thì đổ vào cho đầy, rồi đổ thêm vào bình Reservoir cho lên tới mức MAX. Rất có thể chỉ cần làm như vậy là máy Heater đã hoạt động trở lại bình thường.
Công việc không thể tránh được tiếp đó là phải đặt vấn đề tại sao coolant lại bị hao hụt? Do mình đổ thiếu từ đầu? Hay do rò rỉ? Hay vì sao? Chuyện đó chúng ta sẽ nói đến trong một dịp khác.

2. Do máy sưởi có bọt khí (Air pocket)


Bọt khí lọt vào trong máy sưởi (heater core) hoặc trong ống dẫn làm cản trở sự lưu thông của dòng coolant cũng là một nguyên nhân khiến máy sưởi không thổi đủ hơi ấm. Một trong những cách để kiểm tra xem máy sưởi đủ Coolant hay không là lấy tay sờ vào hai đường ống dẫn Inlet và Outlet của máy sưởi: Cả hai ống này phải nóng đều khi xe nổ máy và đã đạt tới nhiệt độ bình thường. Nếu không được như vậy, đó là dấu chỉ cho thấy coolant có bọt khí. Bọt khí thường thừa cơ len vào khi chủ nhân thay nước coolant. Vì thế, điều cần thiết sau khi thay nước coolant là phải “xả gió”, tức là ép cho các túi khí đó thoát ra.
Ðồng thời, để ngăn không cho bọt khí vào lọt vào trong máy sưởi, một số kiểu xe có thiết kế một nút xả (bleeder valve) nằm trên hộp đựng điều nhiệt kế hoặc ở đâu đó trên các đường ống. Nút xả này cần phải được mở ra khi tiếp nước coolant mới vào trong hệ thống, và đóng lại khi thấy coolant bắt đầu nhỏ ra ở miệng nút xả.

3. Ðiều nhiệt kế (thermostat) bị kẹt

Ðiều nhiệt kế đối với dòng nước coolant có thể ví như một nhân viên công lực đối với luồng xe cộ lưu thông. Cảnh sát viên trông chừng xe cộ, và phạt tài xế không giữ luật thì điều nhiệt kế (thermostat) sẽ phải xử lý nếu dòng nước coolant không làm việc đúng chức năng. Ðiều nhiệt kế mở ra khi dòng nước đã đủ nóng, cho phép nó quay trở về két nước.

Nhưng khi cảm nhận dòng coolant chưa đủ nóng, điều nhiệt kế sẽ đóng cổng, hướng nó trở về máy để tiếp tục hút nhiệt.

Nếu vì lẽ gì đó cánh cổng điều nhiệt kế đóng lại rồi không mở ra được, tức là bị kẹt đóng (stuck closed), thì coolant trở nên quá nóng, không thể giải nhiệt cho đầu máy được nữa, và mau chóng dẫn tới tình trạng overheat (nóng máy). Ngược lại với trường hợp trên là khi điều nhiệt kế mở ra và không đóng lại được, gọi là điều nhiệt kế bị kẹt mở (stuck open) thì dòng coolant không còn được kiểm soát, sẽ lưu thông ồ ạt ngay cả khi chưa thâu thập đủ nhiệt. Dòng coolant không đủ nóng, xe chạy sẽ hao xăng và đương nhiên máy sưởi sẽ thổi hơi không đủ ấm.

Một trong những cách để kiểm tra xem điều nhiệt kế có bị stuck open hay không là mở công tắc cho máy nổ vào ban sáng, rồi lấy tay sờ vào ống dẫn nước bên trên (upper hose) xem dòng nước di chuyển ra sao. Thoạt đầu, bạn sẽ không cảm thấy có gì bên trong, rồi vài phút sau khi máy nổ, thì bàn tay bỗng dưng nóng lên vì dòng nước đột ngột di chuyển bên trong. Tình trạng bình thường phải là như thế. Còn nếu ghi nhận ngược lại - Vừa mở máy đã thấy coolant ùng ục chạy bên trong, và nhiệt độ do bàn tay cảm nhận từ từ nóng lên - thì đó là dấu chỉ rõ nhất cho thấy điều nhiệt kế đã stuck open!

Trong trường hợp này, chỉ cần thay điều nhiệt kế là máy sưởi sẽ hoạt động bình thường.

4. Valve máy sưởi bị hư

Bộ phận này gọi là Heater Control Valve, cũng là một “cánh cổng” giống như bộ phận điều nhiệt kế trên đây. Nhưng heater control valve luôn luôn mở để cho dòng coolant đi qua, ngay cả khi tài xế không mở máy sưởi. Và nó chỉ đóng lại khi được tiếp “chân không” (vacuum). Nếu lúc đó Valve cũng không đóng lại được, thì đó là tình trạng Valve hư, cần phải được thay thế. Thợ chuyên môn mới có đủ thiết bị để làm việc này.

5. Máy sưởi (Heater Core)

Bị nghẹt do rỉ sét, bụi bậm tích lũy khiến cho dòng coolant không thể lưu thông được. Ðến nước này thì chỉ có cách là thay một Heater Core mới. Nhưng để phòng ngừa tình trạng này xảy ra trong tương lai, nước coolant cần phải được thay theo định kỳ, đừng để dòng nước quá thoái hóa, hoặc quá ô nhiễm.

6. Ống dẫn hơi nóng không mở (heater ducting failure)


Nếu kính xe đông đá mà vặn nút defroster không có hiệu quả, thì đó là một triệu chứng cho biết cánh cửa chuyển luồng hơi nóng trong hệ thống ống dẫn không hoạt động.

7. Máy thổi (blower) bị hư

Máy thổi là bộ phận quạt hơi ấm vào trong xe, nếu mô tơ máy thổi bị trục trặc thì xe không thể nào được sưởi ấm đúng mức.

Và dĩ nhiên, bất cứ một trục trặc nào liên quan đến hệ thống giải nhiệt - chẳng hạn water pump (máy bơm nước coolant), cooling fan (quạt giải nhiệt) - cũng sẽ làm cho máy sưởi không thể hoạt động điều hòa.

Trục trặc của máy sưởi, đa số vượt ngoài tầm tay những người tài xế không có chuyên môn về cơ khí. Tốn kém nhất là khi phải thay Heater Core (tức là phần chính trong máy sưởi), ít ra cũng $500, $600 hoặc có khi cả ngàn đô la, chủ yếu là công (labor), còn đồ “parts” không bao nhiêu.


Một lần nữa, những trục trặc liên quan máy sưởi phần lớn là phải được chẩn đoán và sửa chữa bởi thợ chuyên môn.

TML

9 nguyên nhân dẫn đến xe bị ‘overheat’



1. Thiếu coolant


Dĩ nhiên, khí hậu nóng nực Mùa Hè cung cấp thêm môi trường để Overheat có thể xảy ra. Nhưng vốn không phải là bệnh thời khí, nó có thể xảy ra bất cứ mùa nào. Và nếu chẳng may, nó lại chiếu cố bạn ngay giữa đường sương tuyết thì còn khổ nhục gấp mấy lần hơn là trong mùa hè. Nguyên nhân thứ nhất là vì... thiếu coolant. Có thể vì coolant không được tiếp đầy đủ trong lần bảo trì vừa qua. Cũng có thể vì coolant bị bay hơi dần trong tiến trình sử dụng. Như chúng ta đã biết, khi xe chạy, một phần coolant nóng lên, chảy tràn ra khỏi két nước. Cũng may, số nước này không mất đi mà tràn vào trong 1 bình phụ móc ở bên cạnh két nước, gọi là Reservoir. Thế nhưng, một phần coolant nóng cũng vẫn bị bốc hơi, và bay đi mất. Mỗi lúc mất đi một ít, trải qua thời gian, lượng coolant trong máy chắc chắn hao hụt. Chính vì vậy, ít nhất mỗi tháng một lần, chủ xe cần phải xem xét mực coolant trong Radiator, để nếu thiếu thì châm vào cho đầy đủ. Nhớ châm cho đầy đủ cả két nước chính và bình phụ.

2. Hệ thống dẫn coolant có thể bị rò rỉ


Rò rỉ có thể xảy ra ở nhiều chỗ, thường xuyên nhất là ở nơi két nước chính và máy sưởi (heater core). Sau nhiều năm sử dụng, Radiator cũng như Heater Core đã trở nên cũ kỹ, kim loại bị ăn mòn. Khi làm việc dưới áp suất cao, những chỗ mòn này rất dễ bị vỡ, đưa đến rò rỉ. Những chỗ rò rỉ này, thật ra chỉ là những vết rạn, giống như vết chân chim bình thường rất khó nhận ra, nhưng khi các đường ống đầy coolant dưới áp suất cao, những vết châm chim này mới nứt ra và rỉ nước.
Bên cạnh đó, hệ thống giải nhiệt còn nhiều chỗ có thể làm rò nước, chẳng hạn các water jacket, là những “thủy lộ” chạy quanh lốc máy để giải nhiệt. Những water jacket này có thể để rò coolant qua những nút chặn gọi là freeze plug. Nút chặn có thể bị han rỉ, làm coolant thoát ra qua đó. Và sau cùng, coolant cũng có thể nhỉ ra khi những miếng đệm gasket bị rách hoặc bị hở. Những chỗ rò này thường có thể nhận ra ngay khi chúng ta mở nắp đậy đầu xe lên khi đầu máy còn nóng; hoặc phát giác coolant nhỏ xuống trên sân dưới gầm chỗ xe đậu.

3. Ðiều nhiệt kế trục trặc




Ðiều nhiệt kế (thermostat) là bộ phận điều khiển dòng coolant thông qua nhiệt độ. Nó phải đóng, mở đúng lúc để dòng nước chảy xuôi. Những trục trặc chính của điều nhiệt kế là “đóng rồi không mở được”, hoặc “mở rồi không đóng lại được”. Trong đa số trường hợp, điều nhiệt kế thường bị kẹt đóng, nghĩa là đóng rồi mở ra không được. Khi đó, coolant không chạy ngược về Radiator để xả nhiệt, mà cứ chạy loanh quanh miết trong máy, rốt cuộc làm cho máy bốc lên quá nóng. Khi thấy kim nhiệt dâng cao, mà không tìm ra nơi rò coolant, mà máy bơm cũng không hư, thì thủ phạm chính là cái điều nhiệt kế này.

4. Máy bơm bị hư

Máy bơm (water pump) là bộ phận hút đẩy giúp dòng coolant lưu thông trong hệ thống. “Tội” thứ nhất của nó là để coolant rỉ ra qua một lỗ nhỏ ở đáy gọi là Peep Hole. “Tội” thứ hai là chính nó ì ra, không làm việc, tức là không quạt nước đưa vào máy nữa. Dòng Coolant không luân lưu được, đưa đến hậu quả đương nhiên là máy xe overheat.
Ða số máy bơm thường có một dấu hiệu gì đó trước khi đình công hẳn, rõ nhất là tiếng nghiến ken két nghe chói tai, cứng lòng đến đâu cũng không làm ngơ được. Nghe tiếng nghiến đó có nghĩa là bạn chỉ còn chừng vài ba ngày để sửa chữa, nếu không muốn xe nằm ụ giữa đường.

5. Hệ coolant có chứa bọng khí

Khi không khí lọt vào trong coolant, nó không tan hòa mà gom lại một chỗ, tạo thành những “túi khí” (air pocket), làm cho coolant lưu thông không đều. Chúng ta có thể hình dung tình trạng này bằng cách lấy một ống nhựa trong để chuyền nước từ một nơi này sang nơi khác: Bình thường nước sẽ lưu thông liên tục, nhưng nếu một bên gần hết nước, ống sẽ hút thêm không khí ở ngoài vào, tạo thành những bọng khí trong ống chuyền, khiến dòng nước chảy chậm lại. Muốn dòng nước lưu thông đều đặn, chúng ta phải lấy hết các bọng khí đó ra. Trong hệ thống giải nhiệt của xe hơi, không khí có thể lọt vào bằng nhiều cách, tạo ra hậu quả tương tự, và làm cho máy xe trở nên quá nóng. Vì thế việc thay coolant bao giờ cũng phải đi kèm với việc xả gió, tức là tìm cách hút không khí vô tình lẩn vào trong. Một số loại xe được thiết kế “nút xả gió” gắn trên hộp điều nhiệt kế, đôi khi cần mở ra để giải tỏa những bọng khí bị kẹt bên trong.

6. Quạt giải nhiệt nước bị hư

Ðể tăng cường khả năng giải nhiệt, nhà sản xuất có gắn thêm một cái quạt bên ngoài két nước, quay liên tục trong thời gian máy nổ. Nếu quạt ngưng, không quay nữa, két nước không giải nhiệt kịp thời, đương nhiên dẫn đến overheat. Một trong những cách để kiểm tra hoạt động của quạt là mở công tác máy, cho xe nổ tại chỗ, rồi mở máy lạnh, hoặc máy sưởi: Không thấy có hơi nóng, hoặc hơi lạnh thổi ra, đó là dấu chỉ quạt đã “chết”.

7. Thùng nước bị nghẹt


Nếu cái xe đã cũ thì vấn đề két nước (radiator) bị nghẹt không phải là điều khó hiểu. Xuyên qua thời gian sử dụng, mùn, vẩy, cặn sinh ra do tác dụng ốc xít hóa... tích lũy làm nghẹt đường thông thương trong két nước. Nhớ rằng két nước không phải là một cái “bể” rỗng ruột, nhưng là một tổng hợp các đường ống ngoằn ngoèo, nên chuyện nghẹt đường lưu thông rất dễ xảy ra, nhất là khi xe đã cũ, chạy đã nhiều.

Nếu trước đây bạn đã từng dùng một chất “stop leak” nào đó để tạm thời ngăn rò rỉ coolant, thì bây giờ chất “stop leak” đó có thể gây tác dụng ngược, làm nghẹt đường lưu thông trong radiator.

Nếu nguyên nhân Overheat là do nghẹt két nước, thì trước hết chúng ta có thể súc bình bằng một dung dịch “radiator flush” thật tốt . Nếu không có kết quả, tốt nhất là thay luôn Radiator mới.

8. Nắp áp suất bị hư

Ðó chính là cái nắp đậy Radiator. Nhưng phải gọi nó là nắp áp suất mới thực sự đúng tên, vì nắp có nhiệm vụ nén chặt, làm tăng áp suất dòng coolant bên trong. Bằng không, dòng coolant sẽ lưu thông chậm lại, và hậu quả Overheat phát sinh. Nếu thấy kim nhiệt bốc lên cao, bạn cho dừng xe lại, mở Hood lên, và nhìn thấy coolant ứa ra chung quanh nắp đậy, thì đó là dấu hiệu lò xo trong nắp đã yếu, không còn đủ lực giữ áp suất cho dòng coolant nữa.
Nắp áp suất hư có thể dẫn đến nhiều biểu hiện khác, mà chỉ có dụng cụ thử nắp (cap tester) mới cho ta biết được thực hư. Nếu nguyên nhân Overheat đúng là do nắp thì chỉ việc thay nắp là giải quyết xong vấn đề.

9. Head gasket bị nổ, rách



Head Gasket là miếng đệm, chen giữa khối máy và phần úp trên đầu máy. Mục đích của nó là để giữ hơi nén bên trong xi lanh, và ngăn không cho 3 loại chất lỏng - nhớt, coolant và xăng - hòa trộn với nhau. Khi Head Gasket bị rách, hậu quả sẽ hiển lộ ngay với nhiều lụm khói trắng cuồn cuộn thoát ra từ ống bô, chứng tỏ coolant đã len vào xi lanh, và hòa lẫn với xăng.

Head Gasket rách gây nhiều hậu quả trầm trọng, mà tối hậu là máy không nổ nữa, đòi hỏi chủ xe phải ứng phó ngay. Miếng gasket thực không đáng giá bao nhiêu, nhưng tiền công rất đắt là vì thợ máy phải gỡ bỏ nhiều bộ phận trước khi có thể vào trong máy, để thay “miếng đệm” mới.

Nói chung, overheat là hậu quả, còn nguyên nhân thì có nhiều, mà phần lớn cũng xuất phát từ sự lơ là của chủ xe do không chịu thay coolant đúng định kỳ. Vậy, đúng định kỳ là thế nào? Ðối với các loại coolant thường, chủ xe phải nhớ thay coolant mỗi 25,000 tới 30,000 dặm, hay sau 3 năm, tùy điều kiện nào đến trước. Công việc này không tốn kém, hoặc đòi hỏi nhiều công sức: Một đời xe, chúng ta chỉ phải thay coolant chừng 5 hoặc 7 lần mà thôi.

TML

Thay nhớt định kỳ cho xe hơi



Nói chung, một chiếc xe hơi có hai loại nhớt cần phải thay định kỳ: nhớt máy và nhớt hộp số. Nhớt máy dùng để bôi trơn bộ phận xy lanh, piston tạo chuyển động; còn nhớt hộp số dùng để bôi trơn bộ bánh răng truyền động. Nhớt sử dụng sau một thời gian thì độ nhớt bị giảm, nhớt dơ, cho nên phải thay nhớt, để máy và hộp số được bôi trơn tốt, sẽ ít bị mòn, tuổi thọ dài hơn.



               Nhớt tổng hợp (synthetic) và nhớt thường (conventional).

Ðầu tiên nói về việc thay nhớt máy, chừng nào thì phải thay? Có người nói 3,000 dặm, có người nói 6,000 dặm. Thật ra điều này được quyết định bởi việc loại nhớt sử dụng: nhớt thường hay nhớt tổng hợp. Giải thích một cách vắn tắt, nhớt thường mà trước đây ta thường sử dụng có nguồn gốc từ dầu mỏ. Còn nhớt tổng hợp mới được chế tạo bởi con người, bằng cách pha trộn các loại dầu hữu cơ và vô cơ với nhau, để có được những đặc tính đúng như mong muốn. So với nhớt thường, nhớt tổng hợp có nhiều ưu điểm như độ nhớt cao hơn, độ bền nhiệt, hóa cao hơn, ít bị bay hơi hơn... Do đó nhớt tổng hợp sử dụng được lâu hơn và bảo vệ máy tốt hơn. Tất nhiên nó cũng mắc hơn. Thông thường, người ta thay nhớt thường sau 3,000 dặm, còn nhớt tổng hợp thì sau 6,000 miles. Tuy nhiên, điều này cũng chỉ đúng tương đối. Thời gian thay nhớt còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa.




Thí dụ như xe cũ hay xe mới, xe đi nhiều hay ít, đi freeway hay đường trong... Xe cũ thì nhớt mau bị cặn hơn (do máy cũ). Xe cũ còn có tình trạng là nhớt bị hao hụt nữa, bởi vì máy cũ thì bị hở bạc piston. Do đó, nếu đi xe cũ thì phải thường xuyên kiểm tra xem nhớt có còn đủ hay không (dùng cây thăm nhớt ở trong máy xe để kiểm tra), và thay nhớt sớm hơn bình thường. Ví dụ, những ai đang đi xe Toyota Corolla đời khoảng 1999 đến 2005 nên để ý thăm nhớt thường xuyên một chút.

Cũng cần lưu ý là nhớt tổng hợp cũng có nhiều loại khác nhau, và mỗi một loại xe đều có đề nghị một loại nhớt phù hợp với máy của nó. Thợ của những tiệm sửa xe chuyên nghiệp thường nắm vững điều này để chọn nhớt cho đúng. 



Làm sao để nhớ đến kỳ thay nhớt? Mỗi khi thay nhớt, đa số người thợ đều có dán một sticker trên kiếng xe, ghi rõ số miles đến kỳ thay nhớt sắp tới. Ðây là hình thức nhắc nhở khá hiệu quả. Ðừng tin rằng mình tự nhớ nổi thời hạn thay nhớt! Do vậy, nếu người thợ có quên dán sticker thì mình phải nhắc họ làm. Có người làm tròn số miles thay nhớt cho dễ nhớ. Thí dụ: với nhớt tổng hợp họ qui định là thay nhớt mỗi 5,000 dặm: 5,000, 10,000, 15,000... và kết hợp thay nhớt với một vài việc bảo dưỡng định kỳ khác luôn (đổi vị trí vỏ từ trước ra sau...).



Ðối với nhớt hộp số, thời gian phải thay dài hơn so với nhớt máy, và cũng phụ thuộc vào chủng loại xe.

Phổ biến nhất là khoảng 15,000 miles phải thay nhớt hộp số. Cũng có loại xe khỏi phải thay nhớt hộp xe trong trọn đời chiếc xe (Volkswagen)! Ðể cho dễ nhớ, có người tự qui định mỗi năm thay nhớt máy một lần vào đầu năm. Ðiều này cũng hợp lý. Người dân Cali trung bình mỗi tháng chạy cỡ 1,000 miles, tức là một năm cỡ 12,000 miles. Ðầu mỗi năm thay nhớt hộp số một lần đâu có tốn kém thêm bao nhiêu, mà giúp cho hộp số bền hơn.

Nói tóm lại, thay nhớt là một công việc bảo trì xe rất căn bản, ít tốn kém nhưng quan trọng. Một lần thay nhớt thường khoảng $25, nhớt tổng hợp khoảng $40. Thay nhớt đều đặn, đúng lúc, đúng cách sẽ giúp cho chiếc xe có tuổi thọ dài hơn, an toàn hơn, ít hao xăng hơn. Ðừng nên tiết kiệm tiền, hay tiết kiệm thời giờ mà quên làm việc này!

TML

Khi nào cần thay thắng xe


 Lưu ý là cảm nhận “đạp thắng sâu mới ăn” lại phụ thuộc vào mỗi loại xe. Có những loại xe có trang bị hệ thống ABS, đạp thắng gấp là tự động “khóa” 4 bánh, xe ngừng lại cấp kỳ. Có loại thì thắng không ăn đột ngột như vậy. Thắng của xe Honda Civic có cảm giác là “thắng gấp” hơn so với xe Toyota Corolla. Do đó, chỉ khi mình đi một chiếc xe tương đối nhiều mới cảm nhận được sự khác biệt sự thắng bình thường và thắng đã mòn.




Thắng đĩa.                                      
Thắng đùm.



Một cách tổng quát, thắng xe có hai loại là thắng đĩa và thắng đùm. Có một số xe bố trí hai thắng đĩa ở bánh trước, còn thắng đùm ở bánh sau. Có loại xe có 4 thắng đĩa cho cả 4 bánh. Câu hỏi quan trọng nhất hay được đặt ra là “chừng nào thì phải thay thắng?” Ðiều này còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố. 

Có người cẩn thận, hơi một chút là đạp thắng, tất nhiên thắng sẽ mau mòn hơn người có... máu lạnh. Người chạy nhiều trên freeway thì lâu mòn thắng hơn người chạy đường trong. Lời khuyên là cứ vào khoảng 12,000-18,000 miles thì nên check thắng một lần. Lâu nhất thì 30,000 miles cũng nên thay thắng rồi. Nếu đi quen trên một chiếc xe, người lái xe có thể nhận ra những dấu hiệu thắng bị mòn: khi đạp thắng nghe tiếng rít, đạp thắng sâu mới ăn...


Việc thay thắng thì dứt khoát là nên 
đem lại những tiệm sửa xe để thay, không nên vì tiết kiệm mà tự thay ở nhà Khi phát hiện ra thắng xe đã bớt ăn, đa phần chủ xe đều không đủ kiến thức, dụng cụ để chẩn đoán chính xác được nguyên nhân. Nguyên nhân thường gặp nhất là do má thắng bị mòn. Cũng có khi do thiếu dầu thắng, có khi do trục bánh xe bị “rơ,” hoặc do khí lọt vào đường dầu thắng. Như đã có nhắc trong những bài trước, nếu chủ xe không rành về xe cộ, hãy nên chọn cho mình một tiệm sửa xe tin tưởng, để đem xe đến đó thay nhớt, kiểm tra thắng, kiểm tra vỏ định kỳ. Làm như vậy vẫn an toàn hơn là mình tự làm ở nhà.

Một việc bảo trì cũng liên quan đến thắng là mài đĩa thắng. Sau một thời gian ma sát với bố thắng, đĩa thắng bị mòn không đều, bị sọc. Khi xe đang chạy với tốc độ cao, đạp thắng mà có cảm giác tay lái bị rung, đó là triệu chứng của việc đĩa thắng đã bị sọc. Thắng lúc đó sẽ không ăn và mau mòn hơn. Cần phải đem ra tiệm sửa xe, để thợ cho tiện lại đĩa thắng cho có độ phẳng đúng tiêu chuẩn. Trong trường hợp đĩa thắng không cho phép tiện thêm nữa thì phải thay đĩa mới.


Việc kiểm tra dầu thắng cũng rất quan trọng. Hệ thống thắng xe được vận hành bằng một hệ thống bơm thủy lực. Dầu thắng được bơm để ép má thắng vào đĩa thắng, tạo lực ma sát khiến xe dừng lại. Nếu dầu thắng thiếu, hoặc seal bị hở sẽ làm cho thắng không ăn, rất nguy hiểm. Ngoài ra, không khí có thể lẫn trong dầu thắng do dầu thắng đã quá cũ mà không được thay. Khi bị lọt khí vào dầu thắng, lực không được truyền hoàn toàn tới piston thắng, nên hiệu quả thắng sẽ bị giảm, hoặc thậm chí không ăn hoàn toàn. Ngoài ra nước cũng là kẻ thù của thắng. Dầu thắng là dung dịch háo nước, nó sẽ hấp thụ nước trong không khí trong thời gian sử dụng thông qua ống cao su và một số joint đệm bằng cao su. Khi dầu thắng có lẫn nước, các chi tiết trong hệ thống bơm dầu nhanh chóng bị gỉ sét làm giảm hiệu quả thắng. Thêm một vấn đề nữa, khi lẫn nước, nhiệt độ sôi của dầu phanh giảm, nước dễ bốc hơi và tạo ra nghẽn hơi.





Vì vậy, hệ thống bơm thủy lực của thắng phải được kiểm tra trong các kỳ bảo dưỡng định kỳ được qui định bởi hãng xe. Ðã có trường hợp xe đang chạy trên freeway, người lái xe đạp thắng mà thấy thắng bỗng bất thần không ăn. Những kiểu hư hỏng đột ngột như vậy thường là do lỗi của của hệ thống bơm thủy lực. Những trường hợp như vậy, phải lập tức cho giảm tốc độ xe bằng cách sử dụng thắng tay, tìm cách cho xe tắp vào bên lề an toàn, rồi gọi dịch vụ tow xe về garage để sửa chữa.

Còn một hệ thống thắng phụ nữa của xe hơi, đó là thắng tay, được sử dụng khi đậu xe ở đường dốc, hoặc xe đang đi mà hệ thống thắng chính bị trục trặc như vừa trình bày ở trên. Ða số thắng tay là thắng đùm, và chỉ áp dụng cho 2 bánh sau. Thắng tay cũng góp phần quan trọng trong việc bảo đảm an toàn cho người lái xe, cho nên cũng phải được kiểm tra và chỉnh định kỳ, chứ nếu đến lúc cần mà thắng tay không ăn thì đã quá muộn. Thông thường thì sau 5,000 miles nên cho điều chỉnh thắng tay một lần. Có một trường hợp hay xảy ra đối với người mới lái xe, đó là một số người khi ngừng máy, đậu xe thì kéo thắng tay lên , nhưng khi vào xe đi thì lại quên kéo thắng tay xuống (Khi thắng tay đã cài thì trên bảng điều khiển của xe sẽ có đèn báo, nhưng ít có người để ý)! Kết quả là xe chạy trong trạng thái luôn luôn thắng bằng tay. Tất nhiên, trong những trường như vậy, thắng tay sẽ mòn rất nhanh, thường là phải thay mới.

Tại sao không đề máy xe được?



Vào 1 ngày đẹp trời, tự nhiên ra xe đi làm, đi shopping đề máy xe hoài mà xe không nổ. Những phiền toái này hình như người lái xe nào cũng đã trải qua. Tại sao vậy?











Nếu chuyện này xảy ra, nguyên nhân đơn giản nhất có thể là do... quên trả cần số về vị trí “P.” Ðiều đã từng xảy ra khá nhiều lần đối với những người mới lái xe, quên để ý! 

Khi đã loại trừ nguyên nhân này, thì nhiều khả năng nguyên nhân là do battery.


 Ðây là bộ phận điện rất quan trọng, vì nó là nguồn cung cấp điện cho bộ phận đề máy, cung cấp điện chiếu sáng, audio... khi máy xe không nổ. Bình điện mà chết hay yếu thì xe không đề máy được, và vận hành mất ổn định. Lúc xe đang ngừng máy bắt đầu khởi động, bình điện cung cấp năng lượng để trục máy bắt đầu quay. Khi trục máy đã quay, kéo theo sự vận hành của các piston-xy lanh máy, hút nhiên liệu đốt để máy vận hành. Sau khi máy đã tự vận hành, xe sẽ tự động ngắt nguồn động lực từ bình điện. Ngược lại, lúc này máy xe sẽ thông qua bộ phát điện để nạp thêm năng lượng dự trữ vào bình battery.


Việc bình điện bị yếu gây phiền toái như đã kể trên. Nhiều người, nhất là phụ nữ và người già, không biết phải làm gì trong trường hợp này, phải kêu người thân trợ giúp, hoặc gọi dịch vụ kéo xe, vừa tốn tiền, vừa mất thì giờ. Ða phần, nếu có người giúp mình “câu bình” (hay jump start), tức là lấy bình của xe họ nối với bình của xe mình để giúp khởi động máy trở lại, thì xe có thể chạy lại bình thường. Do đó, nếu đi xe cũ, thì trong xe nên mua sẵn một sợi dây “jump start” (dây nối hai bình điện của hai xe với nhau) để sử dụng khi cần thiết, rất hữu ích.




Làm sao biết bình yếu? Một số xe có đèn báo bình yếu trên bảng điều khiển. Cách phát hiện thông thường nhất là khi mình khởi động máy, có tiếng máy quay mà xe vẫn không nổ máy được, thì ta có thể nghi ngờ là tại bình yếu. Ðể kết luận chính xác hơn thì phải đo bình. Một bình điện nếu có điện áp trong khoảng từ 9.6 V đến 12.6 V được xem là bình thường. Thấp hơn là yếu, đề máy sẽ khó nổ. Ngoài ra còn phải đo cả dòng (ampere) mới kết luận chính xác được. Do đó, cách tốt nhất là đem ra tiệm sửa xe để kiểm tra.

Thông thường, khi mua một bình điện mới, chỗ bán đều có bảo hành khoảng từ 2 đến 5 năm. Có nghĩa là tuổi thọ trung bình của một bình điện cũng phải cỡ đó. Tuy nhiên, có những “thói quen xấu” của chủ xe khiến cho tuổi thọ của bình giảm đi nhanh hơn nhiều. Một trong những nguyên nhân thường gặp là để cho bình hết sạch điện. Khi rời xe mà quên tắt đèn chiếu sáng, hoặc tắt đèn trong nội thất xe thì sau một thời gian bình sẽ cạn điện. Ngay cả việc ngồi trong xe tắt máy mà nghe radio, để quạt... cũng có thể làm mau hết bình điện. Hoặc xe để lâu ngày không đi cũng thế. Như đã nói trên, lúc xe chạy là lúc bình ắc qui được nạp lại. Ðối với những bình cũ, lâu ngày không được nạp điện thì sẽ tự động hết điện. 



Ðể tránh bị hết bình vì những nguyên nhân kể trên, trước khi rời xe nhớ lưu ý xem có quên để đèn hay không. Ði chơi xa, bỏ xe ở nhà không chạy thì nhớ nhờ người quen thỉnh thoảng cho xe nổ máy, chạy một lúc để bình được nạp trở lại. Bình càng cũ thì khả năng mau hết điện do không chạy càng mau. Lưu ý là để bình được nạp lại tương đối đầy, xe phải cho chạy liên tục ít nhất là nửa tiếng, và chạy trên freeway thì càng tốt.

Hiện nay, đa số loại bình điện đang được sử dụng đều là bình khô (không xài acid làm môi trường điện phân), cho nên gần như không phải chăm sóc gì. 




Thỉnh thoảng cũng nên quan sát các cọc bình điện, xem có bị đóng muối không. Nếu muối đóng nhiều có thể làm cọc tiếp xúc với dây dẫn không tốt, không ăn điện. Chỉ cần dùng nước nóng chùi sạch cọc bình là được.

Chuyện đề máy không nổ hay khó nổ còn có liên quan đến bộ phận khởi động xe, hay mô tơ đề. Mô tơ đề thực chất là một động cơ một chiều, dùng nguồn điện từ bình điện để khởi động động cơ xe. Khi ta tra chìa khóa xe vào ổ, vặn khóa tức là ta đang khởi động mô tơ đề. Lưu ý là khi xe đã nổ máy rồi, thì không được phép đề máy nữa, vì sẽ làm hỏng bộ đề. Ðã có những trường hợp xe nổ máy quá êm, người lái xe không biết xe nên cứ tiếp tục đề máy, làm hư luôn mô tơ đề máy! Thông thường thì bộ đề ít hư hỏng, có tuổi thọ khoảng 5 năm. Khi bộ đề sắp hư sẽ có những triệu chứng như khởi động nhiều lần mới nổ, bật công tắc không nghe tiếng máy mà chỉ nghe “click, click,” có tiếng động khác thường lúc khởi động... Khi gặp những triệu chứng khác thường, hãy đem xe ra tiệm để kiểm tra ngay.

Còn một nguyên nhân khiến xe không nổ máy được nữa đó là ổ công tắc chìa khóa xe bị hư, do lâu ngày bị mòn tiếp điểm. Tuy nhiên trường hợp này cũng ít xảy ra, và mình cũng không thể làm được gì để phòng ngừa. Hư thì chỉ việc thay mới là xong.

TML

Tìm hiểu về các loại smog check !!


Những đời xe (model) từ năm 1976 cho đến nay là đối tượng của smog check. Những xe đời mới sản xuất trong 6 năm đầu không phải đi smog check, sau đó sẽ phải đi kiểm tra hai năm một lần. Mỗi lần đi bán, sang tên xe cũng phải đi smog check; và những đời xe mới trong 4 năm đầu sẽ được miễn smog check khi bán hoặc sang tên. Các loại xe được qui định miễn smog check là xe điện, xe hybrid, xe hai động cơ, xe hai bánh...


Lưu ý: qui định smog check dựa trên model xe chứ không phải theo năm sản xuất. Thí dụ, những chiếc xe sản xuất năm 1975, nhưng là model 1976, thì vẫn phải đi smog check. Những model xe từ 1975 trở về trước thì khỏi đi smog check, tuy nhiên chủ xe vẫn phải bảo đảm hệ thống lọc khí thải của xe mình còn nguyên vẹn.
Các xe có yêu cầu Smog Check sẽ được kiểm tra, sửa chữa tại các trạm smog check do Bureau of Auto Repair - BAR tiểu bang Cali cấp giấy phép. Các trạm này có thể chỉ kiểm tra mà không được sửa (Test-Only Station), chỉ được sửa mà không làm kiểm tra (Repair-Only Station), hoặc được phép làm cả hai việc này (Test-and-Repair Station). Lưu ý là giá cả của việc kiểm tra, sửa chữa smog check không được qui định bởi tiểu bang, các trạm được quyền tự định giá dịch vụ của mình. Cho nên chủ xe nên gọi để hỏi dọ giá một vài trạm trước khi đem xe đi làm để tiết kiệm tiền.
Thời gian gần đây người ta lại thấy xuất hiện thêm một số trạm smog check có tên là STAR station. Ðây là các trạm smog check cũng được chọn ra bởi BAR, nhưng đạt những tiêu chuẩn cao hơn là các trạm thường. BAR thường xuyên kiểm tra các trạm smog check bình thường, rồi chọn ra các trạm đáp ứng những qui định của BAR ở mức độ cao, nâng cấp lên thành STAR station. STAR cũng có loại chỉ làm test, hoặc được làm cả test & repair. DMV sẽ thông báo cho chủ xe biết trong giấy yêu cầu đi tái đăng bộ là xe phải đi smog check ở STAR station chứ không phải là trạm thường. Câu hỏi đặt ra là những xe nào thì phải đi smog check ở STAR station? Luật tiểu bang yêu cầu một số phần trăm nhất định xe phải được kiểm tra tại STAR. Có thể là do một số đời xe được đánh giá là khả năng gây ô nhiễm cao. Nhưng cũng có thể là do sự lựa chọn ngẫu nhiên của DMV.


Làm sao để bảo trì cho hệ thống khí thải, và giúp cho xe dễ đạt yêu cầu khi kiểm tra smog check? Cách hay nhất, đơn giản nhất, làm bảo dưỡng xe định kỳ theo đúng qui định của cuốn cẩm nang bảo trì, luôn đi kèm với mỗi chiếc xe. Khi thấy đèn báo “check engine” nổi lên, nên đem xe đi kiểm tra ngay. Lưu ý là có một số đời xe, nắp xăng hở, vặn không chặt cũng hiện đèn “check engine.”
Những người đi xe cũ đa phần có thu nhập thấp. Ðem xe đi smog check, lỡ không đạt yêu cầu, phải đem đi sửa thì tốn tiền. Lại nữa, có nhiều chiếc xe không thể sửa để đạt yêu cầu về khí thải, chỉ có nước bỏ đi mua xe mới, trong trường hợp này còn tốn kém hơn nữa. Có cách nào có sự trợ giúp từ chính phủ không? Xin thưa là có. Những trường hợp như vậy, hãy nộp đơn xin giúp đỡ từ Chương Trình Consumer Assistance Program- CAP tạihttp://www.bar.ca.gov/ hoặc điện thoại 1-800-952-5210.
Chương trình này hỗ trợ những chủ xe có thu nhập thấp bằng cách:
- Tài trợ đến $500 cho việc sửa chiếc xe không đạt yêu cầu smog check.
- Tài trợ $1,000 hay $1,500 cho những chiếc xe không đạt yêu cầu smog check và buộc phải ngừng lưu hành. Tức là người chủ chiếc xe bị phế tải được cho tiền để mua xe mới.
Những ai sẽ được chính phủ trợ giúp? Ðiều này tùy thuộc vào thu nhập. Những cá nhân, gia đình có thu nhập thấp hơn hay bằng 225% mức thu nhập nghèo được qui định bởi liên bang sẽ được trợ giúp. Mức thu nhập này có công bố trong văn bản liên bang của Department of Health & Human Services. Những ai đã quen thuộc với các chương trình trợ giúp cho người có thu nhập của chính phủ như MediCal, MSI, Food Stamp...có thể quen thuộc với những qui định này.
Sau khi nhận đơn xin trợ giúp, BAR sẽ trả lời trong vòng 30 ngày. Những chiếc xe được trợ giúp sẽ phải đem đi sửa, hoặc đem phế thải tại các STAR Test & Repair Station, hoặc những trung tâm tháo dở (dismantler) do BAR qui định. Nhớ là phải nhận được thư xác nhận trợ giúp chính thức từ CAP thì mới đem đi sửa hoặc phế thải, đừng làm trước.

TML
Bureau of Automotive Repair home page
BAR.CA.GOV|BY STATE OF CALIFORNIA, DEPT. OF CONSUMER AFFAIRS, BUREAU OF AUTOMOTIVE REPAIR