'cookieChoices = {};'
Showing posts with label Sức khỏe & Đời sống. Show all posts
Showing posts with label Sức khỏe & Đời sống. Show all posts

Thursday, November 20, 2014

Cách Giữ Một Số Loại Rau Củ Trái Cây



Ngày xưa ở Việt Nam, mọi người thường đi chợ mỗi ngày (hay có khi mỗi bữa) nên luôn có rau trái tươi. Những gia đình có mảnh vườn sau nhà còn có thể tự trồng một số loại rau tươi dùng thường ngày. Việc tích trữ rau củ để dành không cần thiết. Khi sinh sống tại hải ngoại, cuộc sống khá tất bật nên đa số thường chỉ đi chợ mỗi tuần một hay hai lần; thậm chí có gia đình phải vài tuần mới ghé chợ một lần vì quá bận rộn hay vì ở xa chợ. Nếu có cách để lưu giữ các loại rau củ trái cây được tươi ngon lâu ngày thì sẽ rất tiện lợi, nhất là khi vào mùa giá bán rẻ, nếu có thể cất để dành thì sẽ tiết kiệm được tiền chợ.





Artichoke
rửa sạch, thái lát mỏng, phơi khô hay sấy khô. Có thể cất để dành như trà, pha uống từ từ
Bạc hà
lấy phần cọng, tước bỏ xơ già, rửa sạch, cắt lát. Có thể muối như kiểu muối dưa. Có thể bọc kín, cất freezer, khi nấu canh cho vào nồi canh chua khi còn đang đông đá
Bắp cải
ngoài việc nấu các món ăn thường ngày, có thể đem muối xổi như cách muối dưa để dành ăn từ từ. Có thể làm món coleslaw salad cất tủ lạnh để ăn trong một vài tuần
Bầu
có thể gọt vỏ, rửa sạch, cắt miếng, xóc muối rồi bóp cho ráo nước, phơi hay sấy cho hơi khô, ngâm tương đã pha với đường, ớt cho vừa ăn hay là đem muối chua như muối dưa. Bầu chua đem nấu canh ăn ngon và dễ tiêu
Bông cải
có thể đem ngâm giấm như kiểu làm pickle
Cà chua
có thể làm paste hay sauce để dành ăn quanh năm
Cà Thái Lan
rửa sạch, xẻ đôi, xóc muối, để ráo nước, ngâm tương đã pha với đường, ớt cho vừa ăn
Chanh
rửa sạch, để ráo. Nếu siêng.thì bào phần vỏ xanh cất để dành cho vào bánh bông lan sẽ thơm lắm. Vắt nước chanh cho vào các ngăn đựng đá, khi đã đông lại, gỡ từng miếng rời cho vào bao cất freezer để dành pha uống hay nêm ướp khi nấu nuớng
Chuối
nếu có nhiều quá, bóc vỏ, ép dẹp hay thái lát, sấy khô để dành ăn vặt. Nếu là chuối sứ có thể làm chè chuối, chuối xào dừa, kem chuối (ép dẹp rắc dừa và đậu phụng rang cất freezer), hay thái lát vừa vừa đem cất freezer để dành khi cần mang ra dùng. Chuối chín có thể đem làm các món bánh như bánh chuối hấp, bánh chuối nướng, banana bread, banana muffin, vv.. vv...
Dâu, Blueberry: các loại trái cây như dâu, blueberry, vv.. vv.. đều có thể làm jam, làm mứt hay là cất freezer
Dưa hấu nếu bị quá chín, ăn sẽ không ngon, đem xay nhuyễn trong máy xay sinh tố sẽ thành món giải khát vừa ngon vừa mát thích hợp với thời tiết ơi bức vào mùa Hè
Dưa leo rửa sạch, bỏ ruột, thái lát dầy vừa phải, xóc muối, vắt ráo, đem phơi hay sấy cho khô ráo (không phải khô cứng) để làm món Mắm Thái Chay hay đem ngâm trong hỗn hợp tương + đường = giấm + ớt
Dứa / thơm / khóm có thể gọt vỏ, bỏ mắt, thái miếng cất freezer. Có thể cắt hạt lựu làm mứt cho vào bánh hay mắm thái chay. Có thể đem sấy trong dehydrator ăn như món ăn vặt
Đậu bắp, đậu que, đậu đũa, rau muống, rau lang, vv.. vv.. rửa sạch, cắt khúc vừa ăn, trụng sơ với nước sôi pha muối, để ráo, chia từng phần, bọc kín, cất freezer
Gừng cũng có thể xay nhuyễn hay thái sợi cất freezer để dành. Có thể làm mứt để dành. Có thể thái lát mỏng, phơi khô, pha nước uống như trà sẽ giúp giữ ấm vào mùa Đông.
Riềng ở ngoài chợ thường bán loại frozen còn nguyên củ. Nếu tự trồng, nên rửa sạch, thái sợi rồi mới bọc kín, cất freezer, khi dùng sẽ tiện hơn
Hành Lá cắt phần gốc (còn rễ) khoảng 2 cm đem giâm vào chậu đất, sau vài ngày hành sẽ mọc đọt mới xanh tốt. Phần mầu trắng cắt khúc để dành thả vào nồi nước dùng cho thơm. Phần mầu xanh còn lại rửa sạch, để ráo nước, cắt khúc cất trong các bao zip lock trong freezer. Khi cần xào, nấu, phi dầu hay nêm vào nhân thì dùng khi còn đang đông đá...
Hành Tây nếu có nhiều, bóc vỏ, rửa sạch, thái lát, phơi hay sấy cho khô để dành dùng từ từ hay là phi vàng với dầu, chia ra nhiều phần, bọc kín cất trong tủ lạnh. Có người khuyên nên cất nguyên củ hành vào freezer,   tốt nhất là bóc vỏ, rửa sạch, thái hạt lựu hay thái khoanh tròn rồi mới bọc kín, như vậy mang xuống có thể dùng xào nấu ngay khi còn đông đá chắc sẽ ngon hơn là chờ tan đá rồi mới bóc vỏ, rửa, thái, vv.. vv... 
 Cũng có thể giữ một số củ nguyên vẹn, khi nấu nước broth, thả vào nồi sẽ giúp nước rất ngọt và trong. Hành Tây có thể đem ngâm giấm ăn kèm một số món hay trộn vào các loại nhân thịt khi nấu nướng làm bánh. Hành Tây còn có thể dùng để chùi  tẩy sạch một số loại vật dụng. Thường khi mở lò BBQ, chờ lò nóng, dùng nửa củ hành tây chà mạnh lên các thanh grill trong lò rồi mới bắt đầu nướng thức ăn. Củ hành tây mọc mầm đem giâm vào chậu đất sẽ mọc thêm lá xanh để mình cắt ăn lai rai
Honeydew melon có thể đem xay nhuyễn, thêm whipping cream hay heavy cream (đã đánh cho nổi bông với một chút đường icing sugar) làm thành ice cream cất freezer ăn rất ngon lại tốt hơn là loại kem mua ở chợ
Hồng giòn rửa sạch, gọt vỏ, thái lát hay để nguyên đem sấy khô
Khoai lang rửa sạch, gọt vỏ, thái lát vừa đừng quá mỏng, ngâm nước pha chút chanh hay giấm cho khỏi thâm đen, sau đó để ráo. Có thể làm mứt khoai lang. Có thể thái sợi bọc kín cất freezer. Có thể đem sấy trong dehydrator như món ăn vặt Nếu ăn ngay trong tuần, có thể làm các món bánh tôm chiên, khoai lang tẩm bột chiên, khoai lang luộc, khoai lang nướng, chè khoai lang, kiểm, cà ri, bì chay, vv.. vv..
Khoai môn gọt vỏ, rửa sạch, để ráo nước, thái sợi, bọc kín, cất freezer để dành làm nhân chả giò, làm món bột chiên khoai môn, bánh đúc mặn khoai môn, vv.. vv...
Lá cẩm rửa sạch, thái nhuyễn, nấu lấy nước mầu tím cho vào ngăn đá, gỡ từng miếng rời cho vào bao cất freezer để dành
Leek cũng trồng và cất giữ giống như hành lá. Khi nấu món chay, có thể dùng thay cho hành lá, hành tây
Mướp đắng / Khổ qua: xẻ đôi, moi ruột, rửa sạch để ráo xong bọc kín cất freezer
Ngò rửa sạch, để ráo, cắt khúc, cho vào ngăn đổ nước ngập qua ngò xong cất freezer.
Ngò om rửa sạch, để ráo, cắt khúc, cho vào hộp kín hơi hay bao zip lock cất freezer
Ớt có thể cất freezer nguyên trái. Cũng có thể rửa sạch, xay nhuyền trộn với ít giấm và muối để ăn như ớt xay. Có thể cắt lát, trộn với muối, cho vào hộp cất trong tủ lạnh sẽ giữ được ớt tươi lâu
Rau húng quế rửa sạch, ngắt phần lá để ráo nước. Có thể trộn với ít dầu cho vào bao zip lock hay cho vào hộp đổ ngập nước cất freezer để dành. Có thể cho vào bao giấy phơi cho khô, sau đó đập cho nhuyễn vụn như kiểu dry basil flakes bán trong hộp nhựa ở chợ
Sả có thể bào lát, xay nhuyễn hay cắt khúc rồi bọc kín, cất freezer tùy ý. 
Táo có thể cất được rất lâu nơi thoáng mát. Có thể làm mứt táo, ép nước táo uống, làm apple pie, apple muffin, vv.. vv.. Có thể rửa sạch, gọt vỏ, thái lát mỏng đem ngâm muối đường rồi sấy trong dehydrator
Thì là rửa sạch, cắt khúc, trộn với một ít dầu, cho vào zip lock cất freezer sẽ để dành được lâu
Tía tô rửa sạch, để thật khô ráo, bọc kín, cất freezer. Cuối mùa có thể nhổ cả cây lẫn rễ, đem rửa thật sạch đất, cắt khúc, phơi hay sấy khô để pha uống như trà sẽ rất tốt nhất là với ai hay bị nhức mỏi
Tỏi  thường bóc vỏ, rửa sạch, để ráo, xay nhuyễn, cho vào bao zip lock, ép cho thành lớp bằng phẳng đừng dầy quá, cất freezer. Khi cần, bẻ một miếng dùng xào, nấu, ướp, phi dầu, vv.. vv.. sẽ gọn lẹ
Trái bơ (avocado)  mua về chờ vừa chín đem rửa sạch, xẻ làm bốn, bỏ vỏ và hạt, nhúng vào nước cốt chanh xong cho vào bao zip lock bọc kín, cất freezer. Trái bơ sẽ giữ được mầu xanh rất lâu. Khi ăn, mang xuống xay nhuyễn khi còn hơi đông đá. Trái bơ còn có thể làm facial mask, hair mask, làm ice cram




Tuesday, November 18, 2014

CÁC LOẠI BỆNH THẤP KHỚP


“THE NEW ARTHRITIS CURE – Eliminate Arthritis and Fibromyalgia Pain Permanently”
ĐIỀU TRỊ MỚI - Loại trừ vĩnh viễn bệnh Khớp, Đau Cơ và Mô Liên Kết

by Dr. Bruce Fife

Đa số bác sĩ nhún vai lắc đầu và chấp nhận tình trạng thường gặp khi điều trị bệnh nhân bị thấp khớp, họ cho toa thuốc không gì khác hơn là thuốc kháng viêm và giảm đau.

Sách Y Khoa ghi rằng không có thuốc chữa trị cho hầu hết các loại thấp khớp. Thuốc chủ yếu tập trung vào việc làm giảm bớt triệu chứng, chứ không trị tận gốc. Vấn đề mà các bác sĩ khi đối phó với bệnh thấp khớp, mặc dù có nhiều lý thuyết, là họ thực sự không biết chính xác nguyên nhân gây bệnh. Nếu không biết nguyên nhân thì làm sao tìm ra cách chữa. Như vậy câu hỏi: Bệnh thấp khớp có thể chữa trị được không? Câu trả lời vang dội lên: Có! Bệnh thấp khớp có thể chữa trị được. Khoa học đã tìm ra nguyên nhân và biết cách chữa trị. Những sự kiện này không ẩn dấu hay không phải là không biết đến, cho dù nó không được phổ biến rộng rãi. Hiện nay những tài liệu y khoa lý thú này đang được mở ra cho các nghiên cứu, phá tan những bí mật về bệnh thấp khớp.

Thông thường các bác sĩ quá cẩn trọng và phản ứng rất chậm trong việc chấp nhận những lý thuyết mới tương phản với giáo điều cũ chủ yếu đã được đặt ra hay với niềm tin đã được học hỏi. Nhiều bác sĩ vun trồng nghề nghiệp dựa trên những tin tưởng này, và tư tưởng gạt bỏ chúng để theo một lý thuyết mới gặp phải sự kháng cự cứng ngắc. Những sự thay đổi có tính tương phản trong y học thường mất vài chục năm, ngay cả một hay hai thế hệ trước khi chúng được chấp nhận cách phổ biến. Sự chấp nhận thường được một bác sĩ tiếp nhận ở một thời điểm nào đó cho đến một ngày quan niệm mới được mọi người đón nhận khi nó trở nên hiển nhiên minh bạch.

Hiện tại đã đang có cách chữa trị cho bệnh thấp khớp, hay ít nhất cho hầu hết các dạng của nó. Bạn không phải đợi nhiều thập niên hay cả một thế hệ cho các thày thuốc y khoa bắt kịp. Bạn có thể bắt đầu ngay bây giờ và tự chữa trị cho chính bạn trong vòng vài tuần hay vài tháng. Không có gì trong chương trình này có hại, làm đau nhức, hay tốn phí, do đó bạn không mất mát gì cả khi thử nghiệm. Chỉ trong những trường hợp quá nặng mới cần đến lãnh vực rộng hơn cần làm để hoàn thành một chữa lành hoàn toàn. Vậy bạn mất gì chứ? Phải chăng là mất đi cái đau đớn và khập khiễng của bạn !

CẤU TRÚC KHỚP XƯƠNG - WHAT’S IN THE JOINT?

Khớp xương là nơi hai đầu xương tiếp giáp nhau và cùng cử động được. Tất cả các xương của bạn, ngoại trừ xương ở cổ, hình thành những khớp với các xương khác. Khớp xương giữ các xương của bạn nối với nhau và giúp cho cơ thể bạn di chuyển. Cơ thể của người trưởng thành có 206 xương với trên 230 khớp có thể chuyển động được. Tất cả chúng có khả năng mang bệnh thấp khớp.

Có ba loại khớp căn bản: cố định, bán chuyển động và chuyển động tự do.

-Khớp cố định: như những đường nối ở trong sọ, không cử động.

-Khớp bán chuyển động: chỉ chuyển động được chút ít như xương cột sống và răng. Mặc dù có vẻ như không chuyển động, răng chuyển động vừa đủ để chúng cảm nhận được độ cứng chúng ta cắn và mức độ thức ăn kẹt giữa các răng.

-Khớp chuyển động tự do: có cử động như bản lề, đòn bẩy, trụ xoay cho phép chúng ta uốn người, đứng, chạy, đi bộ, nhảy, qùy gối, nắm, kéo và thực hiện cả ngàn chuyển động chúng ta làm hàng ngày. Hầu hết các khớp trong cơ thể là khớp chuyển động.

Mỗi khớp xương (joint) là một đơn vị hỗn hợp của xương, sụn, dây chằng, và những cấu trúc khác để làm nên chuyển động. Chung quanh toàn bộ khớp xương là bao khớp. Bao khớp (joint capsult) được cấu tạo bởi các mô liên kết, có sợi, dẻo dai và được gắn chặt vào thân của mỗi xương để bao bọc khớp. Bên trong bao khớp là Màng hoạt dịch (synovial menbrane) chứa chất họat dịch (synovial fluid)để làm trơn khớp. Dây chằng (ligaments) có cấu trúc như các sợi dây làm bằng những mô liên kết dẻo dai như bao khớp và buộc hai xương với nhau. Đầu khớp xương được bọc bởi một lớp sụn (articular cartilage) để bảo vệ hai xương không chạm vào nhau. Chất hoạt dịch bôi trơn chỗ nối giữa hai sụn của xương khớp làm cho cử động nên dễ dàng.

NHẬN ĐỊNH VỀ BỆNH KHỚP

Hậu quả: Viêm khớp làm hàng nhiều triệu người trên thế giới đau nhức, kể cả 1/5 số người lớn ở Hoa Kỳ. Đó là bệnh làm suy giảm khả năng hoạt động đang lan rộngở Mỹ. Trên 50% người từ 65 tuổi trở lên bị bệnh này. Khoảng 294.000 (1 trên 250) trẻ em dưới 18 tuổi cũng bị vài dạng viêm khớp.

Viêm khớp cũng được gọi là bệnh suy thoái khớp xương. Viêm khớp không phải là một bệnh đơn lẻ mà là một nhóm bệnh mà đặc tính chung gồm đau nhức, viêm, và hạn chế cử động của khớp xương. Hai loại viêm khớp thường gặp nhất là viêm xương khớp (ostheoarthritis) và viêm khớp mãn tính (rheumatoid arthritis).

Thuật ngữ viêm khớp không sử dụng rộng rãi và thường được gán mơ hồ cho đau nhức ở hầu hết các phần của cơ thể. Vì vậy cần phải được bác sĩ chẩn bệnh để nhận dạng chính xác bệnh. Viêm khớp có thể xảy ra ở bất cứ khớp xương nào, nhưng đa số thường là ở đầu gối, cổ tay, khuỷu tay, ngón tay, ngón chân, hông và vai. Cổ và lưng cũng có thể bị viêm khớp. Tuy nhiên, nếu bạn thấy đau ở khớp xương, chưa hẳn là bạn bị viêm khớp, vì những bộ phận khác như dây chằng hay dây gân, cũng tạo nên cấu trúc của khớp.

Viêm khớp có thể chỉ xảy ra nơi một hay nhiều khớp. Triệu chứng của viêm khớp là đau, sưng, cứng, và biến dạng nơi một hay nhiều khớp xương. Triệu chứng có thể đến bất ngờ hay tiến triển từ từ. Bệnh nhân chịu đau nhức khác nhau từ cảm giác chói, nóng bỏng, cho đến đau dữ dội. Cử động khớp thường bị đau cho dù có lúc nó chỉ là cứng khớp.

Thường thì đau nhức gia tăng khi trời lạnh hay ẩm thấp. Những yếu tố ảnh hưởngđến tình trạng viêm khớp gồm thức ăn thiếu dinh dưỡng, thiếu vận động, béo phì, nhiễm trùng, và tổn thương nơi khớp xương hay sức căng thường xuyên nơi khớp. Những dạng viêm khớp thường gặp nhất được mô tả ngắn gọn sau đây. Khi bạn đọc mô tả cho từng loại, bạn hãy tìm những điểm tương đồng giữa chúng. Bây giờ bạn sẽ khám phá nguyên nhân cơ bản của tất cả những loại viêm khớp chính.

VIÊM XƯƠNG KHỚP (OSTEOARTHRITIS)

Viêm xương khớp là loại viêm khớp thường gặp nhất gồm khoảng 80% các trường hợp. Nếu bạn bị viêm khớp, thì hầu như bạn bị VXK. Nguy cơ phát triển bệnh này tăng theo tuổi tác. Nó tác động đến 2% số người dưới 45 tuổi, 30% giữa 45 và 64 tuổi, 50 đến 85% nggười trên 65 tuổi, nhiều người trong số này chưa được chẩn đoán ra là đang bị viêm xương khớp.

VXK được xếp vào loại không bị viêm, vì nó thường không có triệu chứng viêm. Ngay cả khi có hiện tượng viêm và bác sĩ kê toa cho mua thuốc kháng sinh, nó vẫn không được công bố là một dạng khác của viêm khớp.

VXK thường được xem là một bệnh suy thoái của người gìa. Triệu chứng của nó là sụn ở đầu các xương khớp mòn dần đi, làm hai khớp xương đối diện chạm vào nhau gây cứng khớp và đau đớn. Bệnh thương tấn công những xương khớp phải chịu sức nặng nên bị mòn, nứt và mất xương như ở đầu gối, hông, xương sống phần dưới, ngón chân, ngón tay.

VXK thường được xem như loại viêm khớp “mòn và nứt xương” vì những khớp đó chịu nhiều gắng sức nhất, người lớn tuổi kinh nghiệm triệu chứng này trước nhất khi bị chấn thương. Bác sĩ thường nói với chúng ta rằng đó là hệ quả của tuổi gìa, không thể tránh được, cũng không thể chữa trị được.

Trong khi nguy cơ VXK gia tăng theo tuổi tác, thì nó không phải là tiến trình thông thường của tuổi già. Vì có nhiều người sống rất thọ mà không bao giờ bị VXK, trong khi có người còn trẻ lại bị bệnh này. Sự suy thoái xảy ra như một tiến trình bình thường theo tuổi tác thì phải xảy ra đồng bộ ở mọi xương khớp; ở VXK nó chỉ xảy ra nơi khớp phải gánh chịu sức nặng. Tuổi tác chỉ cho thấy sự thay đổi nhỏ về thể chất và hóa tính nơi sụn và xương. Ở VXK lại có sự thay đổi đáng kể về suy thoái thể chất, hóa tính nơi sụn và xương. Trong khi tuổi, sức ép, và chấn thương là những yếu tố ảnh hưởng đến VXK, các bác sĩ vẫn chưa biết nguyên nhân thực sự của nó.

Từ những năm đầu 1900, các nhà nghiên cứu đã hoài nghi rằng nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Trong những nghiên cứu trên người và thú vật, VXK đã được nhận dạng là do nhiều loại vi khuẩn gây ra kể cả salmonella và streptococcus. Các bác sĩ vẫn chưa thừa nhận ý kiến rằng mọi trường hợp VXK là do nhiễm trùng. Lý do là việc nhận diện vi sinh vật gây nhiễm trùng chưa có được kết luận thuyết phục trong nhiều trường hợp.

VXK có thể chuyển sang khập khiễng, què quặt. VXK ở dầu gối là một trong năm nguyên nhân dẫn đầu gây tình trạng bất lực giữa những người trưởng thành không thuộc cơ quan, tổ chức nào, không bảo hiểm, và nó lại thường không trầm trọng như các bệnh viêm khớp khác. Cho nên đa số người bệnh chịu đựng với tình trạng bệnh, và kiềm chế bệnh bằng thuốc uống.

VIÊM KHỚP DẠNG THẤP (RHEUMATOID ARTHRITHIS)

Khác với VXK, viêm khớp dạng thấp ảnh hưởng trên bao khớp hơn là trên sụn khớp. Tình trạng này nghiêm trọng hơn VXK nhiều.

Triệu chứng là viêm mãn tính, sưng, và đau nhức. Phần lớn xảy ra ở các khớp ngón tay, cổ tay, và chân. Tuy nhiên bất cứ khớp xương nào cũng có thể bị viêm. Bao khớp nối hai xương khớp trở nên viêm và chỗ khớp sưng lên. Sụn mòn dần, gây đau buốt và khó cử động. Cơ bắp chung quanh cũng chịu ảnh hưởng. Nếu không được chữa trị sớm, sẽ dẫn đến tình trạng cứng khớp.. Tuy nhiên điều trị chu đáo, có thể phòng ngừa bất lực nơi đa số bệnh nhân.

Ở Hoa Kỳ, 42-68 / 100.000 người bị VIÊM KHỚP DẠNG THẤP. Nữ giới bị bệnh này gấp ba lần nam giới. Tỉ lệ mắc bệnh này như nhau nơi mọi chủng tộc. Bệnh có thể bắt đầu ở bất kỳ tuổi nào, nhưng thường sau 40 và trước 60. 2% số người 60 tuổi trơ lên bị viêm khớp dạng thấp.

Nguyên nhân của bệnh gây đau đớn và khập khiễng này vẫn còn đang tranh luận, mặc dù nhiễm trùng đã được chú ý đến từ lâu. Đa số các bác sĩ tin rằng đó là bệnh tự miễn nhiễm, hệ miễn nhiễm của cơ thể tự tấn công mình. Kháng thể do cơ thể sản xuất để tự bảo vệ mình khỏi nhiễm trùng lại đổi dạng để tấn công các khớp xương cũng như các cơ quan khác trong cơ thể.

Vì nó có thể ảnh hưởng nhiều cơ quan, viêm khớp dạng thấp được xem là bệnh toàn thân, và đôi khi được xem là bệnh thấp khớp. Bệnh nhân có thể không thấy biểu hiện triệu chứng gì trong thời gian dài. Tuy nhiên viêm khớp dạng thấp là mộtbệnh tăng tiến không ngừng có khả năng hủy hoại khớp xương và gây tàn tật.

BỆNH GÚT và BỆNH GIẢ GÚT ( GOUT and PSEUDOGOUT)

Bạn đã từng bao giờ tỉnh giấc giữa đêm bởi ngón chân cái đau buốt chưa? Nó nóng, sưng, mềm, và buốt dù chỉ với cái chạm nhẹ. Nếu có, bạn bị gút cấp tính rồi. Gút là một dạng của viêm khớp có triệu chứng là bất thình lình đau kinh khủng, đỏ và mềm ở khớp xương.

Viêm gút là tình trạng rối loạn trao đổi chất trong đó acid uric, một chất thải khi phân giải purine, gia tăng trong máu. Acid uric thặng dư tích lũy như tinh thể muối u-rát ở khớp xương và các mô khác.

Bệnh gút gỉa cũng giống như gút, nhưng tinh thể chính được tạo thành là muối can-xi.

Về phương diện lịch sử, bệnh gút có liên quan đến tính phàm ăn. Nó là bệnh của hoàng tộc với những bữa ăn thịnh soạn giàu purin như thịt và rượu. Charlemagne và vua Henry VIII là những người bị bệnh gút nặng. Ngày nay những người bệnh gút được khuyến khích giảm ăn thịt và uống rượu để tránh sự tấn công của gút.

Mặc dù ăn uống qúa nhiều thịt rượu gia tăng cơ hội của bệnh gút cấp tính, chúng thực sự không gây ra bệnh. Hầu hết những người bị gút không cung cấp nhiều hơn số lượng bình thường acid uric ( sản phẩm phụ của sự chuyển hóa protein). Thay vào đó , họ không thể bài tiết hoàn toàn acid uric ra ngoài. Thận chịu trách nhiệm trong việc bài tiết 1/3 acid uric, ruột đảm nhiệm phần còn lại. Nhiều người có lượng cao acid uric bị suy thận. Khoảng 20% số người bị gút cũng có sạn thận.

Những biến chứng có liên quan đến sạn thận bao gồm cả chuyện bí tiểu và nhiễm trùng. Nếu không điều trị, gút có thể dẫn đến suy thận nặng. Bệnh gút trở nên phức tạp hơn nếu bệnh nhân có thêm các bệnh khác như cao máu. Điều này tạo nhiều tinh thể tích tụ ở khớp hơn, gây thêm những tấn công khác.

Gút là loại thường gặp nhất của viêm khớp nơi nam giới. Nam giới bị bệnh gút nhiều hơn nữ giới, nhưng thường gia tăng theo tuổi cho cả hai, đặc biệt nơi phụ nữ thời hậu mãn kinh.

Cơn đau buốt và viêm đặc trưng khi gút tấn công được cho là do khởi động của tinh thể nhọn đâm vào mô khớp nhạy cảm. Cử đông càng gây đau thêm. Tấn công xảy ra bất ngờ, và tồn tại trong nhiều ngày hay tuần, rồi cũng thình lình biến mất, chỉ tái trở lại trên vết cũ sau vài tháng hay một năm. Gút thường ảnh hường chỉ một khớpmỗi lần.

Chữa trị gút bao gồm thuốc kháng viêm nonsteroidal (NSAIDs) cho đau nhức và viêm, kiêng rượu, giảm thức ăn giàu protein, và thuốc giảm sự sản xuất aicd uric hay làm tăng sự bài tiết. Việc hạn chế thức ăn có thể hay không thể giúp. Hạn chế sữa và thực phẩm giàu calcium dường như không hữu hiệu cho bệnh gỉa gút, là bệnh có liên quan đến thủy tinh thể calcium.

Bệnh gút rõ ràng có những triệu chứng biểu tỏ sự hiện diện của nhiễm trùng cấp tính và thường bị chẩn đoán sai. Nó tỏ lộ sự nhiễm trùng toàn thân được định vị ở khớp xương. Sốt, đỏ, khớp nóng, và số bạch huyết cầu tăng cao là dấu chỉ của gút tấn công. Cách duy nhất để bác sĩ nhận diện nó là lấy mẫu của chất nhờn hoạt dịch (synovial fluid) cho xét nghiệm xem nó có tinh thể hay virút trong đó không. Nếu thủy tinh thể hiện diện thì nó là gút, nếu virút hiện diện thì nó là viêm khớp cấp (infectious arthritis) - xem Viêm Khớp Cấp trong phần dưới đây.

Niềm tin vào sự hiện hữu của tinh thể nhọn như mũi kim là nguyên nhân của cơn đau buốt do gút thì không chắc chắn. Những tinh thể này mọc rất chậm trong nhiều năm. Tại sao bất thình lình giữa đêm khuya khi mà xương khớp thảnh thơi nằm nghỉ, thì mũi nhọn của cạnh tinh thể này lại đâm vào khớp gây đau đớn, gây viêm và sưng? Nếu tinh thể mọc ở đó lâu ngày rồi, cơn đau cũng phát triển dần dần và tăng tiến theo thời gian chứ! Những triệu chứng sẽ không tự ra đi đột ngột, nhưng sẽ tiếp tục bao lâu tinh thể còn hiện diện. Tinh thể của gút không biến mất ngay lập tức; chúng ở đó cả đời trừ khi có chuyện gì quyết liệt xảy ra làm thay đổi chất hóa học của cơ thể và làm cho chúng tan rã đi.

Sự tấn công của gút đến và đi không có lý do rõ ràng. Tinh thể không là nguyên nhân mà chỉ là triệu chứng, cũng như sạn thận không gây ra bệnh thận, chúng là triệu chứng của thận suy. Vậy thì cái gì gây ra bệnh gút?

Mặc dù gút đem đến tất cả những dấu hiệu của nhiễm trùng cấp tính, nó không được cho là do nhiễm trùng gây ra, vì do sự vắng mặt của vi khuẩn trong chất nhờn hoạt dịch và sự thất bại của thuốc kháng sinh. Rất có khả năng là gút do virút gây ra. Xét nghiệm tiêu biểu có thể đã chưa tìm ra được virút, và virút lại không bị ảnh hưởng bởi thuốc trụ sinh. Điều này cũng giải thích sự bất thường của gút tấn công đến và đi định kỳ mà không có lý do rõ ràng. Đây cũng là điều xảy ra với những loại nhiễm virút khác. Ví dụ: Virút herpes ( của bệnh giời leo), tồn tại và ngủ yên hàng nhiều tháng năm rồi bất thình lình xuất hiện ở môi. Nó gây nhiễm trùng cấp tính cùng với chỗ giộp phồng và đỏ trong vài ngày rồi phai dần, đợi ngày nào đó sẽ trở lại. Hiện nay, cũng như những dạng việm khớp (arthritis) khác, các bác sĩ vẫn thực sự không biết điều gì đã gây ra bệnh gút.

BỆNH VIÊM KHỚP TRẺ EM (JUVENILE ARTHRITIS)

Viêm khớp nơi trẻ em là một dạng viêm khớp dạng thấp xảy ra nơi trẻ em. Nó kéo dài ít nhất 6 tuần nơi trẻ em dưới 16 tuổi mà không bị dạng viêm khớp nào khác trong thời kỳ này. Nữ thường bị nhiều hơn nam. Nó thường khỏi sau vài năm, nhưng khoảng 40-45% bị viêm khớp dương tính trên 10 năm. Tuổi bị nhiều nhất là từ một đến sáu và có thể dẫn đến còi cọc xương khiến trẻ bị dị dạng vĩnh viễn.

Trong một số trường hợp, triệu chứng có thể là toàn thân ( Still's disease).Những triệu chứng này dễ bị định bệnh sai như bệnh cúm hay ngộ độc thực phẩm. Triệu chứng có thể gồm sốt 39 độ C (102 F) hay cao hơn, sốt có thể biến mất rồi tái trở lại vào ngày hôm sau, cùng với lạnh run cầm cập, hạch bạch huyết ( lymph nodes) sưng, và da nổi sẩn đỏ. Người bệnh biếng ăn, sụt cân, đau bao tử, thiếu máu, đau họng, và số bạch cầu tăng cao. Những triệu chứng này tồn tại trong nhiều tuần hay nhiều tháng. Viêm khớp (arthritis) với khớp sưng, thường xảy ra sau khi bị nổi sần và sốt một thời gian.

Một dạng của viêm khớp trẻ em là viêm đa khớp dạng thấp (polyarticular juvenile rheumatoid arthritis) ảnh hưởng đến nhiều khớp (năm hay hơn). Nó thường tấn công cách đối xứng, ảnh hưởng cùng loại khớp cả hai bên cơ thể. Trong một số trường hợp, bệnh nhân có thể bị sốt nhẹ và đỏ mắt. Nó thường chuyển sang dạng viêm cứng khớp đốt sống khi đến tuổi trưởng thành.

VIÊM CỨNG KHỚP ĐỐT SỐNG (ANKYLOSING SPONDYLITIS)

Viêm cứng khớp đốt sống là loại việm khớp mãn tính, đau nhức, viêm ảnh hưởng chính yếu trên cột sống và khớp xương chậu (sacroiliac joints). Nó thường bắt đầu ở phần dưới lưng và sau đó ảnh hưởng đến phần giữa và phần trên của lưng. Nó có thể lan đến những khớp xương khác và thường ảnh hưởng đến xương hông. Những dây gân và dây chằng giúp cho lưng cử động bị viêm. Phản ứng lại, đốt xương sống mọc vào nhau và dính liền nhau. Cột xương sống sau cùng trông giống như cây tre, bẻ cong về phía trước dưới sức nặng của cái đầu. Nếu bạn đã từng trông thấy một người gìa đi cúi gập người xuống như đang nhìn vào chân, bạn đã chứng kiến tình trạng sau cùng của viêm cứng khớp đốt sống.

Bệnh bắt đầu ở tuổi tương đối trẻ, từ 18 đến 30. Đau nhức nhiều khi nghỉ ngơi, và tăng lên khi hoạt động. Nam bị bệnh này nhiều hơn nữ với tỉ lệ là 3:1. Khoảng 40% trường hợp, nó gây mắt đỏ và nhạy cảm với ánh sáng, một triệu chứng thông thường khác là hay mệt mỏi. Khi tình trạng xảy ra trước 18 tuổi, nó thường gây đau và sưng ở khớp xương lớn của tay chân, đặc biệt là hai đầu gối.

Đa số các bác sĩ không thực sự biết nguyên nhân nào đã gây ra viêm cứng khớp đốt sống, nhưng nhiều bằng chứng cho thấy nó do kết hợp của di truyền và nhiễm trùng. Nhiễm trùng rõ ràng kích thích sự bắt đầu của viêm cứng khớp đốt sống nơi người bị di truyền. Nó thường có liên kết với nhiễm trùng đường tiêu hóa và bệnh Crohn. Sự tin tưởng rằng vi khuẩn đường ruột vào máu, thường qua một viêm loét trong đường tiêu hóa, kích thích viêm cứng khớp đốt sống. Vi sinh vật có liên quan đến viêm cứng khớp đốt sống gồm campylobacter, clostridium, salmonella, shìella, yersinia, bacteroides, và đặc biệt vi khuẩn Klebsiella pneumoniae. Gene có liên quan với viêm cứng khớp đốt sống là HLA-B27. Tài liệu nghiên cứu cho biết chuộtđược gây giống với gene này và giữ trong môi trường vô trùng không phát triển viêm cứng khớp đốt sống trừ khi nó bị nhiễm một trong những loại vi khuẩn này. Thật không may là thuốc kháng sinh không thành công trong việc chế ngự bệnh này.

Khoảng 90% những người bị viêm cứng khớp đốt sống có gene HLA-B27; đây là lý do vì sao nó được cho là bệnh do di truyền. Thế còn 10% só người bệnh không có gene này thì sao? Tại sao họ lai bị bệnh? Di truyền dường như không phải là câu trả lời hoàn toàn.

VIÊM KHỚP PHẢN ỨNG (REACTIVE ARTHRITIS)

Viêm khớp phản ứng, trước đây gọi là hội chứng Reiter, có nhiều đặc tính với viêm cứng khớp đốt sống. VKPƯ là một dạng viêm khớp mãn tính với ba đặc tính riêng biệt: viêm ở khớp, mắt đỏ, và viêm ở bộ phận sinh dục, đường tiểu hay hệ tiêu hóa. Dạng viêm khớp này được gọi là viêm khớp "phản ứng" vì hệ miễn nhiễm "phản ứng" với nhiễm trùng ở hệ sinh dục, đường tiểu, hay hệ tiêu hóa.

VKPƯ được xem là một bệnh thấp khớp mãn tính. Điều này có nghĩa là ngoài khớp xương, nó có thể ảnh hưởng đến các cơ quan khác nhiều hơn là ở khớp xương, gây viêm ở các mô như mắt, miệng, da, thận, tim, và phổi.

Cũng như viêm cứng khớp đốt sống, VKPƯ được xem là do sự kết hợp của di truyền và nhiễm trùng gây ra. Nó cũng có cùng loại gene HLA-B27 nơi đa số bệnh nhân. Một nhiễm trùng nào đó xảy ra thì mới tạo điều kiện cho VKPƯ hình thành. VKPƯ có thể xuất hiện sau bệnh hoa liễu. Vi khuẩn thường gặp nhiều nhất có liên quan đến hậu bệnh hoa liễu để hình thành VLPƯ là Chlamydia trachomatis. Một lần nhiễm độc thực phẩm hay một nhiễm trùng hệ tiêu hóa hay nhiễm trùng đường tiểu có thể mở đường cho VKPƯ. Tính đặc trưng của nó là: các triệu chứng phát triển một đến ba tuần sau nhiễm trùng. Phản ứng giữa vi khuẩn gây nhiễm trùng và viêm khớp chưa hiểu rõ. Môi trường của vi khuẩn ở chất hoạt dịch thường âm tính, dẫn đến việc cho rằng VKPƯ là bệnh tự miễn nhiễm do hệ miễn nhiễm bị kích thích quá độ phản ứng lại, vì một lý do nào đó không biết, trở thành mãn tính.Điều trị gồm thuốc giảm đau, NSAIDs, và thuốc làm suy yếu hệ miễn nhiễm.

VIÊM KHỚP VẢY NẾN (PSORIATIC ARTHRITIS)

Viêm khớp vảy nến là một bệnh mãn tính có đặc tính là viêm ở da (vảy nến) và xương khớp. Vảy nến là một bệnh thông thường ở da ảnh hưởng trên 2% dân số Caucasian ở Mỹ. Triệu chứng của nó là những mảng nhỏ không đồng đều nối kết với nhau, nổi sần, đỏ ở chỗ bị viêm, có vảy. Vảy nến thường ảnh hưởng chỗ cuối của khuỷu tay, đầu gối, da đầu, vùng rốn, và chung quanh bộ phận sinh dục. Khoảng 10% người bị bệnh vảy nến cũng phát triển bệnh viêm khớp vảy nến.

Viêm khớp vảy nến thường xảy ra sau tuổi 40, không thiên vị nam hay nữ. Da nổi bùng vảy và đau khớp thường xảy ra riêng biệt. Khoảng 80% bệnh nhân có bệnh da đi trước bệnh đau khớp. 15% bệnh nhân phát triển bệnh viêm khớp trước bệnh vảy nến. Chẩn đoán bệnh viêm khớp vảy nến có thể khó nếu viêm khớp xảy ra trước vảy nến nhiều năm. Thực tế, bệnh nhân có thể bị viêm khớp 20 năm hay hơn trước khi vảy nến xuất hiện. Ngược lại, bệnh nhân có thể bị vảy nến trong nhiều năm trước khi phát triển viêm khớp.

Phần đông bệnh nhân bị vảy nến nhiều tháng hay nhiều năm trước khi bị viêm khớp. Viêm khớp thường thấy nơi đầu gối, mắt cá chân, và khớp xương ở chân, nhưng cũng có thể gặp ở phần xương sống và lưng dưới. Viêm ở ngón tay và ngón chân có thể gây sưng cho toàn ngón, làm cho ngón có dạng như miếng xúc xích vậy. Cứng khớp là tình trạng chung và tệ hơn vào mỗi sáng sớm.

Việm khớp vảy nến là một bệnh mãn tính có thể gây viêm nơi những vùng khác như mắt, tim, phổi, và thận. Viêm khớp vảy nến có nhiều triệu chứng giống những loại viêm khớp khác như viêm cứng khớp đốt sống và viêm khớp phản ứng.

Nguyên nhân tới nay vẫn chưa rõ, nó được cho rằng do kết hợp của di truyền và nhiễm trùng. Bệnh nhân có gene HLA-B27 khoảng 50% thời gian. Các bác sĩ cho rằng 50% còn lại là do những gene có khuyết điểm khác gây ra.

FIBROMYALGIA - ĐAU CƠ BẮP và MÔ LIÊN KẾT

Các khớp của bạn cứng, bạn đau khắp người, bạn khó ngủ, và lúc nào cũng cảm thấy mệt mỏi. Xét nghiệm không tìm thấy gì, bác sĩ bảo bạn không có bệnh gì. Bạn nghe điều này có quen thuộc không? Nếu có triệu chứng đó, bạn có thể bị fibromyalgia.

Fibromyalgia là chữ kết hợp của chữ Latin fibro (fiber: sợi) và chữ Đức myo(muscle: cơ bắp) và algos (pain: đau), có nghĩa là đau nơi cơ bắp và mô liên kết.Fibromyalgia được xem là tình trạng có liên hệ đến viêm khớp. Tuy nhiên nó không là một dạng của viêm khớp vì nó không gây tổn thương hay viêm ở khớp, cơ bắp, hay những mô khác. Fibromyalgia cũng như viêm khớp, có thể gây đau rõ rệt. Nó thường kết hợp với cứng khớp và đau ở vùng lân cận. Fibromyalgia được xếp loại ở đây vì nó có khởi đầu giống viêm khớp và bệnh nhân khi áp dụng những kỹ thuật điều trị ghi trong sách này cũng có kết qủa rất tốt.

Triệu chứng của bệnh là đau kinh niên lan rộng nơi cơ bắp, dây chằng, dây gân, và khi chạm nhẹ đến càng làm tăng đau nhức. Nó có thể gồm cả nhiều triệu chứng khác, kể cả từ trung bình-tới-nặng: mệt mỏi, mất ngủ, cứng khớp, tê thấp hay da bị kim châm, đau nhức bắp thịt, vọp bẻ, yếu cơ bắp, đau dây thần kinh, đau bụng, phù bụng, buồn nôn, táo bón thay phiên với tiêu chảy, nhức đầu, xương hàm và mặt nhạy cảm, khó tập trung , khó làm việc đầu óc, gia tăng việc mót tiểu và đi tiểu, giảm sức chịu đựng khi thể dục, cảm thấy sưng phù ( mặc dù không bị thật sự) ở tay và chân, đau thời kì kinh nguyệt, chóng mặt; và nhạy cảm với mùi, tiếng động, ánh sáng chói, thuốc men, một số thực phẩm; và lạnh. Bệnh nhân thường không bị hết mọi triệu chứng này nhưng có thể bị vài triệu chứng chung với nhau.

Trong nhiều năm, fibromyalgia không được chính thức công nhận thuộc tình trạng cần thuốc điều trị. Lý do là những xét nghiệm không cho thấy những bất thường nào là đặc tính của tình trạng này, và nó bao gồm khá nhiều triệu chứng khác nhau làm cho khó chẩn bệnh. Vì khó chẩn bệnh, nó thường được gọi là hội chứng ẩn nấp(invisible syndrome). Nó thường được gán cho là bệnh tâm lý, và bác sĩ tin rằng đó là do người ta tưởng tượng họ bị bệnh. Mãi đến năm 1990 American College of Rheumatology offically nhận ra fibromygia như là một bệnh thực sự. Vì không có xét nghiệm, nó được xem như là hội chứng hơn là bệnh.

Nguyên nhân tới nay vẫn chưa được biết, nhưng vài gỉa thiết đưa ra bao gồm di truyền, làm việc qúa sức, khó ngủ, hormon hoạt động không bình thường, trầm cảm, nhiễm độc tố, và nhiễm trùng. Triệu chứng thường xảy ra sau một chấn thương thể lý hay tình cảm. Nhiều người được chẩn bệnh fibromyagia nói rằng các triệu chứng của họ xảy ra trong lúc hoặc ngay sau một nhiễm trùng như bệnh cúm. Những loại nhiễm trùng kể cả viêm gan C (hepatitis C), HIV, và Lyme disease có liên kết với sự bắt đầu (tấn công) của fibromyalnia. Cũng có bằng chứng cho vai trò của chủng ngừa (vaccinations) trong việc khởi đầu của bệnh.

Điều trị hiện nay: Người mắc bệnh thấp khớp nào đó (mô liên kết) như viêm khớp dạng thấp (rheumatoid arthritis), viêm cứng khớp đốt sống (ankylosing spondylitis), và lupus ban đỏ toàn thân (systemic lupus erythematosus) cũng hay bị fibromyalgia. Chưa có phương thuốc nào được công nhận và cách chữa tiêu chuẩn là nhắm đến kiềm chế triệu chứng.


VIÊM KHỚP CẤP (ACUTE INFECTIOUS ARTHRITIS)

Infectious arthritis cũng được biết đến như là septic arthritis: viêm khớp cấp. Điều này rất quan trọng, nó là dạng của bệnh thoái hóa khớp xương và cung cấp chìa khóa để am hiểu cách giải quyết cho hầu hết các dạng khác của viêm khớp (arthritis).Đây là dạng viêm khớp duy nhất mà bác sĩ biết nguyên nhân và cách chữa. Như tên của bệnh hàm chỉ, bệnh do sự xâm chiếm của vi sinh vật, thường là vi khuẩn, vào khớp xương từ vùng bị nhiễm trùng lân cận hoặc từ vỉ khuẩn ( nhiễm trùng máu).

Loại viêm khớp này phát sinh duy chỉ từ một nhiễm trùng mà không do ảnh hưởng của di truyền, rối loạn trong sự trao đổi chất, hay những yếu tố phức tạp khác. Nó chỉ là một nhiễm trùng đơn thuần tấn công các khớp xương.

Viêm khớp cấp xảy ra nơi mọi nhóm tuổi. Ở người lớn, nó thường ảnh hưởng ở cổ tay, nhiều nhât nơi đầu gối là nơi chịu sức nặng của cơ thể, mặc dù 20% người bệnh có triệu chứng nơi nhiều khớp. Viêm đa khớp thường gặp ở trẻ em đặc biệt ở vai, đầu gối, và hông.

Tác nhân gây bệnh chính: Bất cứ loại vi khuẩn, virút, hay nấm nào từ máu tìm đường vào trong khớp thì có thể gây ra viêm khớp cấp. Tác nhân thường gặp nhất là vi khuẩn, đặc biệt là Staphylococcos aureus, Streptococcus pyogenes, Streptococcus viridans, và Haemophilus influenzae. Nơi người có nguy cơ cao nào đó, những vi khuẩn khác có thể gây ra viêm khớp cấp. E. coli và Pseudomonas spp. có thể gây ra viêm khớp cấp nơi những người lạm dụng tiêm thuốc vào tĩnh mạch và nơi người gìa; Neisseria gonorrhoeae (vi khuẩn gây bệnh lậu) có thể gây bệnh nơi người trung niên qua quan hệ tình dục; và Salmonella spp. có thể gây bệnh nơi các em thiếu niên hay người có bệnh tế bào hình liềm (sickle cell anamesia). Người gìa thường dễ bị nhiễm trùng khớp gây ra bởi gram-negative bacilli, kể cả salmonella và pseudomonas. Những vi khuẩn khác có thể gây nhiễm trùng bao gồm Mycobacterium tuberculosis, gây bệnh lao, và những loài của spirochete bacterium gây Lyme disease và bệnh giang mai.

Virút có thể gây viêm khớp cấp gồm siêu vi gan A, B, và C, parvovirus, herpes viruses, mumps, và ebola. Nấm gây bệnh gồm histoplasma, coccodiomyces, blastomyces, và candida. Nhiều loại vi khuẩn, virút, và nấm gây viêm khớp cấp lập nơi thường trú ở cơ thể con người tại da, miệng, hay đường tiêu hóa. Chúng tương đối vô hại ở tư gia của chúng, nhưng nếu chúng có dịp đi vào trong máu và định cư ở khơp xương, nơi không phải là nhà, chúng sẽ trở thành quân khủng bố.

Trong khi viêm khớp có thể ảnh hưởng đến người không rõ tác nhân gây nguy cơ cho sức khỏe, nó thường xảy ra nhiều hơn khi tình trạng nguy cơ nào đó hiện hữu.Nguy cơ có thể phát triển viêm khớp cấp gồm uống nhiều thuốc làm hệ miễn nhiễm chịu áp lực nặng, tiêm thuốc tĩnh mạch qúa nhiều, có bệnh hay thương tổn khớp cũ (đặc biệt nơi người gắn khớp giả), giải phẫu, và nhiều loại bệnh khác như tiểu đường, nghiện rượu, ung thư, bệnh tế bào hình liềm (sickle cell anemia), các bệnh thấp khớp (kể cả những dạng khác của viêm khớp và lupus), và rối loạn hệ miễn nhiễm.

Triệu chứng của viêm khớp cấp gồm : cứng, sưng, nóng, đỏ, đau. Trong nhiều trường hợp, bệnh nhân bị nóng + ớn lạnh, mặc dù có thể chị là sốt nhẹ. Trê em thỉnh thoảng bị buồn nôn và ói mửa. Những khớp bị ảnh hưởng là đầu gối, vai, cổ tay, hông, khuỷu tay, và khớp nơi các ngón tay. Hầu hết nhiễm trùng vi khuẩn và nấm ảnh hưởng chỉ một khớp hay, thỉnh thoảng, vài khớp. Ví dụ: Vi khuẩn gây bệnh Lyme đa số thường ảnh hưởng ở đầu gối. Vi khuẩn Conococcal và virút có thể gây nhiễm trùng vài hay nhiều khớp cùng một lúc. Nhiễm trùng thường hình thành đột ngột, nhưng triệu chứng nhiều khi kéo dài từ 3 đến 14 ngày.

Chẩn đoán viêm khớp cấp tùy thuộc vào sự kết hợp của kết quả xét nghiệm và khám xét nơi vùng khớp đau. Viêm khớp cấp có thể cùng hiện diện với những dạng viêm khớp khác, sốt thấp khớp, bệnh Lyme, hay những bệnh khác. Chẩn đoán bằng cách lấy mẫu của chất hoạt dịch ở khớp. Lượng bách huyết cầu được xét nghiệm để xem nếu nó tăng lên, đó là dấu hiệu hệ miễn nhiễm đang đánh trả nhiễm trùng. Phòng xét nghiệm thường cấy và nhận dạng vi khuẩn tử chất hoạt dịch, trừ phi bệnh nhân đang uống thuốc kháng sinh. Tuy nhiên, vài loại vi khuẩn, gồm vi khuẩn gây bệnh lậu, bệnh Lyme, giang mai, và một số bệnh khác, rất khó tìm lại trong hoạt dịch. Nếu vi khuẩn được cấy, xét nghiệm sau đó được thử xem loại thuốc kháng sinh nào sẽ hữu hiệu.

Điều trị gồm rút nước hoạt dịch bị nhiễm trùng ở khớp ra và lập tức cho thuốc kháng sinh. Thường thì bệnh viện sẽ cho thuốc kháng sinh qua truyền vào tĩnh mạch khoảng hai tuần, hay đến khi hết viêm. Sau đó bệnh nhân sẽ còn uống kháng sinh thêm đến bốn tuần nữa.

15 tác dụng chữa bệnh không ngờ của củ hành



Theo những nghiên cứu ghi chép thì hành được sử dụng từ những năm trước công nguyên và là một vị thuốc chữa được rất nhiều bệnh.
Hành tây là một thành viên của gia đình hoa huệ tây và có “mối liên hệ mật thiết” với tỏi. Nó thường được gọi là "vua của các loại rau" vì hương vị cay nồng.

Có nhiều loại hành với đủ loại màu sắc, kích thước và vị giác. Các củ hành nhỏ thì thường được gọi là hành lá, bao gồm hẹ, tỏi tây và hẹ tây.

Lợi ích dinh dưỡng 

Tuy cùng là một giống nhưng sự khác nhau về chủng loại, thời gian trồng và thời gian lưu trữ cũng làm cho các loại hành này có tác dụng dinh dưỡng khác nhau.

Hành được coi là thực phẩm có tính kháng viêm cao. Ngoài ra, nó lại rất giàu vitamin A, B, C và là một nguồn tiềm năng của acid folic, canxi, phốt pho, magiê, crom, sắt và chất xơ.


Lợi ích sức khỏe

Theo những nghiên cứu ghi chép thì hành được sử dụng từ những năm trước công nguyên và là một vị thuốc chữa được rất nhiều bệnh.

15 tác dụng chữa bệnh không ngờ của củ hành, Y tế - thiết bị, suc khoe, hanh, vitamin, tieu duong, benh da day, ung thu

Một số tác dụng chữa bệnh của hành có thể kể ra như sau:

Giảm cholesterone: Chất sắt có trong hành tây chính là lý do tại sao hành tây được cho là rất tốt trong việc điều trị thiếu máu.

Chống đông máu: Chỉ cần mỗi ngày ăn nửa củ hành thôi là bạn đã có thể tự giảm đáng kể lượng cholesterone cho mình và giúp bản thân ngăn ngừa những cơn đau tim.

Chống viêm: Các chất chống viêm trong hành rất có ích trong việc giảm các triệu chứng của tình trạng viêm, đặc biệt là viêm khớp và bệnh gút.

Chống nhiễm khuẩn: Hành có tác dụng tiêu diệt các vi khuẩn lây nhiễm, bao gồm cả vi khuẩn E.coli và Salmonella. Ngoài ra, nó còn có hiệu quả chống lại bệnh lao và nhiễm trùng đường tiểu, chẳng hạn như viêm bàng quang.

Tốt cho huy ết áp: Dù bạn ăn sống hoặc nấu chín, hành tây cũng giúp bạn hạ huy ết áp một cách tự nhiên. Nó cũng làm loãng máu, hòa tan cục máu đông và lọc máu khỏi các chất béo không lành mạnh.

Phòng chống ung thư ruột kết: Fructo-oligosaccharides trong hành kích thích sự tăng trưởng của vi khuẩn có lợi trong ruột kết và giúp giảm nguy cơ phát triển khối u ở ruột kết.

Táo bón và đầy hơi: Ăn nhiều hành tây sẽ giúp giảm táo bón mãn tính và đầy hơi.

Tiểu đường: Chromium trong hành tây giúp các tế bào trong cơ thể của bệnh nhân tiểu đường có phản ứng thích hợp để làm giảm mức độ insulin và cải thiện lượng đường glucose hấp thụ vào cơ thể.

Lợi tiểu và làm sạch máu: Hành có tác dụng giữ nước để tránh sỏi tiết niệu, viêm khớp và bệnh gút.

Chữa ù tai: Trong một số nền văn hóa, người ta nhúng bông vào nước ép hành và chấm vào tai để chống lại sự ù tai.

Rụng tóc: Một nghiên cứu đã cho thấy việc bôi nước ép hành tây trên da đầu hai lần một tuần trong 2 tháng sẽ làm cho tóc mọc lại. Biện pháp này hiệu quả mà chi phí lại chắc chắn rẻ hơn những loại thuốc mọc tóc khác.

Tăng cường miễn dịch: Vị hăng của hành làm tăng lưu thông máu và sự tiết mồ hôi. Đặc biệt trong thời tiết lạnh, hành có tác dụng tránh nhiễm trùng, giảm sốt và đổ mồ hôi ra cảm lạnh và cúm rất tốt.

Loãng xương: Trong hành có chứa một hợp chất có thể ngăn ngừa các hoạt động phá vỡ xương. Đặc biệt nó có lợi cho những phụ nữ có nguy cơ bị loãng xương khi họ đi qua thời kỳ mãn kinh.

Hô hấp: Mỗi ngày bạn nên uống 3-4 thìa cà phê hỗn hợp nước ép hành và mật ong để làm tiêu đờm và ngăn chặn sự tạo đờm trong cơ thể. Hỗn hợp này cũng là vị thuốc để chống lại bệnh cảm lạnh thông thường.

Nâng cao chất lượng “chăn gối”: Hành là một chất kích thích tình dục mạnh, chỉ đứng thứ hai sau tỏi.

Nhiễm trùng đường tiết niệu: Đun sôi hành trong nước cho đến khi nước bốc hơi. Lọc lấy nước củ hành, để nguội và uống. Các đặc tính chống vi khuẩn của hành sẽ giúp làm giảm các cảm giác nóng khi tiểu tiện.

Mẹo chọn và bảo quản hành

Khi mua hành tây, chọn những củ có hình dáng rõ ràng, vỏ khô. Không chọn những củ đã nảy mầm hoặc có dấu hiệu thối rữa, héo hoặc vỏ đổi màu.

Hành có thể được lưu trữ ở nhiệt độ trong phòng nhưng vẫn nên đặt ở nơi thông gió, tránh xa ánh sáng để tránh mọc mầm. Không để hành cùng với khoai tây vì chúng sẽ hấp thụ độ ẩm và khí ethylene từ khoai tây và thối nhanh hơn.

Để không bị cay mắt khi thái hành, hãy để lạnh hoặc cho nó vào nước khoảng một giờ trước khi làm.

Mặc dù hành tây có nhiều lợi ích sức khỏe, nhưng nó cũng có những nguy cơ tiềm ẩn. Vì vậy chỉ nên dùng ở mức vừa phải.

Chất bổ từ quả nho


Tăng cường sức đề kháng, chống lão hóa, tốt cho tim mạch, có tác dụng thải độc tố... từ lâu nho đã được chứng minh là một loại quả chứa nhiều chất bổ có lợi cho sức khỏe.

Tăng cường sức đề kháng

Cứ 100g thịt quả nho sẽ cho 71 calo, 10 - 12g đường dễ hấp thụ, 11mg vitamin C (18% nhu cầu hàng ngày). Nếu chỉ nhằm cung cấp sinh tố C từ nho thì mỗi ngày phải ăn khoảng 500g.

Thịt quả nho ăn dễ tiêu, giải khát, thông tiểu và lợi mật. Trong quả nho có chứa polyphenol có tác dụng chống oxy hóa, bảo vệ các tế bào và các nguyên sinh chất trong cơ thể, chống lại sự hình thành các gốc tự do.

Vì vậy ăn nho giúp con người trẻ lâu, làm giảm nếp nhăn, tăng sức đề kháng, chống lại sự xâm nhập của các loại virus. Ngoài ra trong quả nho còn chứa nhiều đường gluco và fructose dễ hấp thụ, các vitamin và khoáng chất có tác dụng tăng sức đề kháng cho cơ thể.
Hạt nho - xin chớ bỏ!

Trong lớp vỏ mỏng của hạt nho, người ta tìm thấy các chất resveratrol có cấu trúc hóa học tương đồng với hormone estrogen ở người. Chúng có tác dụng làm giảm cholesterol, bảo vệ thành mạch máu trong cơ thể.

Điều này giải thích tại sao uống rượu vang đỏ lại có tác dụng tốt cho tim mạch. Trong cao làm từ hạt nho có chứa chất proantho-cyanidin, là chất chống oxy hóa có tác dụng ngăn chặn sự phát triển của nhiều bệnh nan y, chống xơ vữa động mạch và quá trình lão hóa sớm.

Khả năng loại trừ các gốc tự do của chất này lớn hơn nhiều so với vitamin C và E. Tác dụng của chất proantho-cynidin đã được thử trên tế bào ung thư vú, dạ dày, phổi và bạch cầu ở người, cho kết quả tốt. Các dòng ung thư đều bị ức chế và hoạt động của các tế bào khỏe mạnh được đẩy mạnh. Mức độ tác dụng tùy thuộc vào nồng độ sử dụng và thời gian ủ cao hạt nho. Chất này còn phòng được bệnh do virus gây ra, kháng virus herpes, bại liệt.

Hạt nho còn được ép lấy dầu, chứa nhiều axít linoleic, có tác dụng giảm chứng bất lực ở nam giới và hạn chế nguy cơ về bệnh tim mạch nếu dùng hàng ngày. Dầu này còn có khả năng giảm kết vón tiểu cầu (gây máu đông cục, làm tắc nghẽn thành mạch).

Ngoài ra, nó còn có tác dụng phòng chống chứng tăng huyết áp (do ăn nhiều muối), hàn gắn vết thương do tiểu đường và béo phì gây ra.
Vỏ không phải là bã

Trong vỏ quả nho chứa nhiều chất có khả năng kháng khuẩn. Qua phương pháp đồng vị phóng xạ, người ta thấy chất này không bị phá hủy bởi dịch tiêu hóa nên có thể tuần hoàn khắp cơ thể và cho tác dụng toàn thân rất tốt.

Vỏ nho chứa nhiều resveratrol hơn trong thịt quả nho. Chất này có khả năng chống oxy hóa mạnh gấp 7 lần vitamin E. Vì vậy khi ăn nho ta nên ăn cả vỏ. Tất nhiên trước khi ăn, nho cần được ngâm rửa kỹ.


Nước ép từ nho

Uống 1 ly nước ép nguyên chất từ quả nho đỏ hay tím sẫm rất tốt cho chức năng tim. Nước ép nho đỏ có ảnh hưởng trực tiếp lên phản ứng đông máu, vừa làm tăng nồng độ các chất kháng oxy hóa và giảm các gốc tự do trong hệ tim mạch.

So với nước ép bưởi, cam, cà chua và táo, nước ép nho đỏ có hoạt tính kháng oxy hóa mạnh gấp 3 lần. Người ta phân tích các chất có trong thành phần nước ép này và thấy nó cũng chứa những hoạt chất được tìm thấy trong trái tắc (quất), có hiệu quả phòng tránh các bệnh nhiễm trùng đường tiết niệu.

Tác dụng thải độc

Đặc biệt, nho còn có tác dụng đào thải chất độc trong cơ thể. Nho giúp gan quét đi lượng độc tố có hại trong cơ thể, đồng thời có ích cho quá trình tái tạo máu. Lượng nước, kali cao (có tác dụng lợi tiểu), giàu chất xơ (thúc đẩy quá trình tiêu hóa) làm tăng khả năng thải độc của loại quả giàu dinh dưỡng này.

Vì vậy, nếu có điều kiện, mỗi tuần bạn nên ăn nho một lần để làm sạch cơ thể. Nho là loại quả giàu năng lượng nên rất tốt cho trẻ em, thanh thiếu niên, người chơi thể thao - những người cần nhiều năng lượng.
Nước ép nho cũng có giá trị tốt như ruợu vang đỏ

Cho đến bây giờ những tác dụng tích cực của một ly rượu vang đối với tim mạch thật sự đã quá rõ. Nhưng đối với những người không uống rượu thì liệu họ có được hưởng những giá trị như thế khi sử dụng cùng loại trái cây không phải lên men?
Trước kia, nước ép nho có thể không được nhiều “tiếng thơm” như rượu vang, nhưng bạn hãy vui mừng cho sức khỏe khi ngày nay đã có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng nho có thể ngăn ngừa bệnh tim. Uống rượu một cách có điều tiết có thể làm lưu thông tốt mạch máu và tăng mức độ của HDL (High-Density Lipoprotein - lipoprotein có tỷ trọng cao), bổ sung Cholestorol. Những giá trị tốt cho tim mạch có trong rượu như chất resveratrol và flavonoids cũng tồn tại trong nước ép nho, đặc biệt khi bạn trộn chung nho đỏ và nhỏ đen.

Các nghiên cứu độc lập đã tìm ra rằng cũng như rượu, nước ép nho có thể giảm nguy cơ máu vón cục và ngăn LDL (một lọai cholesterol nguy hiểm) lên động mạch vành. Một trong những nghiên cứu bởi các nhà khoa học thuộc đại học Wisconsin - đã được in trên tờ nhật báo Circulation - nhìn nhận những tác động có lợi ngay tức thì của nước ép nho trên 15 người đang mắc bệnh có liên quan tới động mạch vành. Sau 2 tuần, những người tình nguyện bắt đầu cảm thấy mạch máu lưu thông tốt hơn và giảm sự oxy hóa của chất LDL. Hiện tượng oxy hóa LDL có thể gây hại cho huyết mạch.

Đã có những nghiên cứu khác trên cơ thể người và động vật, trong đó có một nghiên cứu đăng trên báo Atherosclerosis chỉ dẫn rằng nếu sử dụng nước ép nho mỗi ngày có thể làm giảm bệnh tăng máu và điều hòa mức độ cholesterol. Nhưng bài viết cũng cảnh báo là tốt nhất bạn nên tự làm lấy, vì một vài loại nước ép trên thị trường có thể chứa nhiều đường hóa học và thành phần nhân tạo không tốt cho sức khỏe.

Xơ vữa động mạch là bệnh tác động đến động mạch (cũng như tĩnh mạch nếu nó được phẫu thuật di chuyển đến nơi khác để làm chức năng của động mạch). Về mặt đại thể, nó có biểu hiện là thành mạch máu trở nên "xơ cứng" bởi các sang thương được gọi là mảng xơ vữa phát triển trong thành mạch. Vào giai đoạn muộn, mảng xơ vữa có thể gây hẹp lòng mạch và làm hạn chế luưu lượng máu trong đó. Nó cũng có thể vỡ ra và trôi theo dòng máu làm tổn thương các mô và cơ quan bên dưới. 


Nước nho ép tốt cho tim

Các nhà khoa học Pháp cho biết nước nho ép dường như cũng có tác dụng phòng ngừa bệnh tim mạch như rượu đỏ. Các nhà nghiên cứu của trường Đại học Louis Pasteur de Strasbourg đang nghiên cứu tác dụng của nước ép từ nho Concord đối với tim.

Bác sĩ Valerie Schini-Kerth, người dẫn đầu cuộc nghiên cứu được đăng trên tập san Nghiên cứu về Tim mạch này cho biết: “Nước nho ép có thể có tác dụng (chống lại bệnh tim) tương tự như rượu đỏ nhưng lại không có chất cồn - đây là thông điệp rất quan trọng”. Rượu đỏ và một vài loại nước nho ép có hàm lượng polyphenol cao và đây chính là chất ngăn chặn việc sản xuất một loại protein có liên quan đến bệnh tim mạch, vốn là sát thủ hàng đầu ở các nước phương Tây.


Các vấn đề về tim mạch phát sinh khi các tế bào nội mô có nhiệm vụ cấu thành mạch máu không hoạt động một cách bình thường.



Bác sĩ Schini-Kerth và nhóm nghiên cứu của bà đã phát hiện rằng chất polyphenol có trong nước ép từ nho Concord kích hoạt các tế bào nội mô sản xuất ra nitric oxide, một loại chất giúp chống lại bệnh tim mạch, duy trì mạch máu khỏe mạnh và ổn định huyết áp.


Polyphenol trong rượu đỏ hay Polyphenol trong nước nho ép đều cho tác dụng như nhau. Bác sĩ Schini-Kerth cho biết: “Tuy nhiên không phải tất cả nước nho ép đều cho tác dụng tích cực. Để có tác dụng tích cực, nước nho ép đó phải có hàm lượng polyphenol cao.”

Lượng poyphenol trong nước nho ép cũng như trong rượu đỏ sẽ tùy thuộc vào từng loại nho dùng để ép và cách thức chế biến loại nho đó.

Bà Schini-Kerth: “Chúng tôi hiện có thông tin về hơn 100 loại rượu khác nhau cùng hàm lượng polyphenol trong các loại rượu này. Điều chúng tôi biết được là những loại rượu có tác dụng bảo vệ nhiều nhất là loại có hàm lượng polyphenol cao nhất và điều này đã được xác minh.” Tuy nhiên theo bác sĩ Schini-Kerth thì hiện nay hầu như không có thông tin nào về hàm lượng polyphenol trong nước nho ép.

Các nhà khoa học hiện đang nghiên cứu các tế bào của heo, là một mẫu điển hình để nghiên cứu tế bào của người.

Hiện họ đang nghiên cứu tác dụng của nước nho ép đối với các mạch máu khỏe mạnh, và dự định sắp tới sẽ tiến hành thêm một cuộc nghiên cứu nữa để xem liệu nước nho ép có tác dụng tương tự đối với mạch máu có dấu hiệu bị bệnh tim mạch hay không.

Công dụng của trái BƠ (avocado)



Có những lợi ích từ quả bơ mà không phải ai cũng biết. Dưới đây là 10 lợi ích về sức khỏe mà quả bơ có thể mang lại cho bạn nếu dùng nó mỗi ngày.

1. Chống ung thư thận

Các nhà nghiên cứu ở Mỹ đã chứng minh rằng, trong trái bơ có chứa một số chất giúp chống ung thư như trong một số trái cây rau quả khác.

2. Tăng khả năng chống ung thư miệng

Một số hợp chất có trong trái bơ có thể phát hiện những tế bào có khả năng ung thư hoặc gây ung thư miệng và tiêu diệt chúng mà không gây hại đến những tế bào khỏe mạnh.

3. Chống ung thư vú

Giống như dầu ô liu, bơ có chứa lượng axit oleic khá cao. Đây là loại axit giúp ngăn ngừa ung thư vú.

4. Tốt cho mắt

Trong bơ có chứa lượng lutein carotene cao hơn bất cứ loại trái cây nào khác. Chất này giúp chống sự thoái hóa thành các vết đen, bệnh đục nhân mắt và một số bệnh về mắt liên quan đến tuổi thọ.

5. Giảm Cholesterol

Bơ có chứa rất nhiều beta-sitosterol, là một hợp chất làm giảm tỉ lệ cholesterol. Một nghiên cứu tiến hành trên 45 người đã cho thấy ăn một quả mỗi ngày sẽ giúp giảm tỉ lệ chất béo xuống khoảng 17% chỉ trong vòng một tuần.

6. Giúp tim khỏe mạnh

Một ly bơ có chứa 23% folate, chất đã được chứng minh có tác dụng giảm nguy cơ do bệnh tim gây ra so với những người không ăn. vitamin E và glutathione có trong bơ cũng rất tốt cho tim của bạn.

7. Chống đột quỵ

Tỉ lệ folate cao trong bơ giúp giảm thiểu tối đa các cơn đột quỵ.

8. Hấp thụ chất dinh dưỡng tốt hơn

Một nghiên cứu cho thấy những người ăn salad kèm với bơ sẽ hấp thụ lượng caroteroid (bao gồm lycopene và carotene) gấp 5 lần so với việc ăn salad không.

9. Glutathione

Bơ chứa rất nhiều glutathione - chất chống ôxy hóa rất quan trọng trong quá trình ngăn chặn sự lão hóa, ung thư và bệnh tim.

10. Vitamin E

Bơ là nguồn cung cấp vitamin E tốt nhất cho cơ thể. Vitamin này giúp ngăn ngừa bệnh tật và duy trì một cơ thể khỏe mạnh.

Sự kỳ diệu của quả bơ (avocado)

Hầu hết người tiêu dùng ở Việt Nam chỉ biết sử dụng quả bơ cho việc làm sinh tố, chưa biết về giá trị dinh dưỡng tuyệt vời cũng như cách sử dụng rất phong phú của quả bơ.

Trên thế giới, tại các nước như Mỹ, Mexico, Úc…Trái bơ được đánh giá cao và được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau như ăn quả tươi, chế biến nhiều món ăn ngon, tinh chiết dầu ăn và đặc biệt bơ được sử dụng rất nhiều trong mỹ phẩm cho việc chăm sóc sắc đẹp.

Những công dụng nầy mang lại tiềm năng phát triễn lớn cho sản xuất và tiêu dùng Trái bơ của Việt Nam, nhất là hiện nay với sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế, Trái bơ Việt Nam còn rộng đường cho việc xuất khẩu, nhờ thời gian bảo quản đã được kéo dài đến 60 ngày.

Giá trị dinh dưỡng

Trái bơ có chứa hơn 14 loại vitamin và khoáng chất bao gồm canxi, sắt, đồng, magiê, phốtpho, kali, natri, kẽm mangan và selen.

Trái bơ cũng rất giàu chất chống oxy hoá, có tác dụng ngăn ngừa hình thành các gốc tự do dẫn đến gây ung thư, đục thuỷ tinh thể, lão hóa da, giúp duy trì làn da săn chắc.

Trái bơ còn là nguồn Folate rất quan trọng đối với phụ nữ trong độ tuổi sinh nở và đặc biệt quan trọng đối với thai kỳ ở những tuần đầu tiên vì 75% trẻ sơ sinh bị nứt đốt sống là do thiếu folate từ trong bụng mẹ.

Là một trong rất ít loại trái không có cholesterol, mà lại có chứa chất béo đơn không bảo hòa, đây là loại chất béo tốt cho cơ thể giúp làm giãm hàm lượng cholesterol.

Trái bơ có chứa hàm lượng protein cao nhất so với các loại quả khác, cao gần như tương đương với sữa.

Ngoài ra, Trái bơ còn có hàm lượng muối thấp, chất xơ cao, có hàm lượng lutein cao, có chất carotenoid tự nhiên giúp mắt sáng và duy trì một làn da đẹp.

Giá trị với sắc đẹp

Trái bơ được sử dụng vào việc chăm sóc sắc đẹp và sức khỏe nhờ giàu vitamin A, E, D cùng với các khoáng chất kali, phốtpho, lưu huỳnh và clo, trong đó:

- Vitamin E có tác dụng bảo vệ các axit béo chống lại sự ôxy hóa, nhờ vậy làm chậm quá trình lão hóa của tế bào giúp làn da tươi trẻ và săn chắc.

- Vitamin A có tác dụng lột bỏ lớp da chết, thúc đẩy việc sản xuất chất collagen.

- Vitamin D giúp duy trì hàm lượng canxi trong máu nhờ đó xương và răng chắc khỏe.

- Kali và phốtpho có tác dụng làm đẹp da, tóc và giúp phát triễn cơ thể.

- Dầu trái bơ có rất nhiều giá trị trong việc tái tạo và giữ ẩm cho làn da. Dầu bơ bảo vệ làn da không bị khô và tăng khả năng đàn hồi của da.

Nguồn dinh dưỡng cho trẻ em

Trái bơ rất dễ chế biến làm thức ăn cho bé, với trẻ từ 6 tháng tuổi trở lên, thì chỉ cần nghiền nhỏ phần thịt của Trái bơ, còn trẻ em lớn hơn thì có thể cắt thành từng miếng cho bé cắn.

Trái bơ rất có lợi cho sức khỏe của trẻ em, vì trong quả bơ có chứa protein, vitamin A, E, C cao. Protein là một thành phần dinh dưỡng quan trọng đối với sự phát triễn của trẻ em và đặc biệt là trẻ sơ sinh. Ngoài ra các chống ôxy hoá tác dụng bảo vệ các tế bào não, còn vitamin B tổng hợp trong Trái bơ có tác dụng tăng cường trí nhớ. Vì thế quả bơ là một nguồn dinh dưỡng hoàn hảo cho sự phát triễn trí não của trẻ em.

Giá trị với môi trường

Trồng bơ mang lại nhiều lợi ích cho môi trường:

- Cây bơ không chỉ có tác dụng làm bóng mát mà còn giúp làm giãm nhiệt độ không khí do việc thoát hơi nước từ lá.

- Cây bơ còn là nguồn cung cấp ôxy đáng kể và giúp cho không khí có sự trong lành tươi mát. Vì theo các nghiên cứu cho thấy cứ 1 cây bơ sản xuất gần 118kg ôxy mỗi năm và cứ 1 ha vườn bơ trong 1 năm có thể giúp loại thải được 6,4 tấn CO2.

Vườn Bơ còn có thể làm giãm dòng chảy và lọc nước mưa nhờ đó làm giãm nguy cơ lũ lụt, nâng cao khối lượng và chất lượng nước. Rễ cây Bơ còn giúp chống lại sự xói mòn của đất.

Quả bơ (avocado) rất tốt cho sức khỏe


Ngoài ra, trái bơ còn là một loại thực phẩm có thể chữa trị những biểu hiện của bệnh tim có liên quan đến mức cholesterol.

Một thời gian dài trước đây, nhiều người đã được khuyến cáo là không nên ăn bơ vì nó giàu chất béo và chứa nhiều calorie. Trong khi, theo các chuyên gia dinh dưỡng, lượng chất béo cao chứa trong trái bơ là chất béo không bão hòa dạng đơn thể (monounsaturated fat) rất có ích trong việc cải thiện sức khỏe. Cụ thể, khi dùng bơ thường xuyên sẽ mang lại cho bạn những lợi ích sau:

Lợi ích về mặt dinh dưỡng

Các loại axít béo không bão hòa dạng đơn thể trong quả bơ giúp kiểm soát quá trình trao đổi chất trong cơ thể. Ngoài những loại axít béo có ích, trái bơ còn chứa hàm lượng kali cao. Bên cạnh đó, nó chứa các loại vi dưỡng chất quan trọng khác như sắt, đồng, magiê và phốt pho. Trái bơ còn có nhiều loại vitamine như vitamine A, nhóm vitamine B, axít folic, vitamine C, vitamine E và can-xi. Trái bơ còn là nguồn giàu chất xơ, ít chất đường và tinh bột, là loại thực phẩm lý tưởng cho các bệnh nhân mắc bệnh đái tháo đường.

Lợi ích về sức khỏe

- Giúp điều chỉnh huyết áp: Với hàm lượng cao axít folic và kali có trong trái bơ sẽ giúp điều chỉnh huyết áp và chống đột quỵ, cũng như ngăn ngừa những vấn đề về tim và các bệnh liên quan đến hệ tuần hoàn.

- Giảm cholesterol gây hại: Thành phần axít oleic và linoleic chứa trong trái bơ có tác dụng làm giảm mức cholesterol xấu (LDL) và gia tăng lượng cholesterol có ích cho cơ thể.

- Trị loét bao tử: Bơ giúp làm dịu phần bề ngoài nhạy cảm, niêm mạc của bao tử và tá tràng, do vậy sẽ có tác dụng điều trị hiệu quả các vết loét.

- Tăng cường hệ miễn dịch: Việc dùng bơ thường xuyên có tác dụng duy trì tình trạng khỏe khoắn và tăng cường hệ miễn dịch.

- Cải thiện khả năng thị giác: Các chất antioxidants chứa trong trái bơ giúp trung hòa các gốc tự do, cải thiện thị giác và phòng tránh các bệnh về mắt, như bệnh loạn thị, bệnh tăng nhãn áp và bệnh đục thủy tinh thể.

- Giúp hơi thở thơm tho: Các thành phần trong trái bơ có tác dụng tẩy trừ các chất cặn bã đã bị phân hủy trong đường ruột.

- Ngăn ngừa sạn thận: Chất kali chứa nhiều trong trái bơ giúp làm giảm lượng can-xi bài tiết qua đường nước tiểu, nhờ thế sẽ làm giảm nguy cơ mắc bệnh sạn thận.

- Giúp thai nhi phát triển: Thành phần axít folic trong trái bơ đóng vai trò có ích và quan trọng cho quá trình phát triển các mô mạnh khỏe của bào thai.

- Ngăn ngừa tình trạng nôn ói ở thai phụ: Vitamine B6 có trong trái bơ có thể giúp làm dịu cảm giác buồn nôn và khó chịu ở bao tử của chị em trong suốt thời gian thai nghén.

- Phòng tránh ung thư tuyến tiền liệt: Chất phytonutrient có trong trái bơ có tác dụng ngăn ngừa quá trình phát triển của các tế bào ung thư ở tuyến tiền liệt.

- Tăng cường độ khỏe khoắn của hệ thần kinh và cơ bắp: Lượng kali chứa trong trái bơ giúp cân bằng các chất điện phân, giúp các cơ bắp hoạt động hiệu quả, đồng thời còn giúp tăng cường năng lượng cho hệ thần kinh và quá trình trao đổi chất trong cơ thể.

- Ngăn ngừa bệnh vẩy nến: Theo các chuyên gia, chất dầu có trong trái bơ rất có ích trong việc điều trị các chứng bệnh về da như bệnh vẩy nến và chứng khô da.

Friday, November 7, 2014

27 bí quyết

Tổ tiên đã lưu lại cho chúng ta 27 bí quyết, thực sự rất hữu ích

1, Ăn no không gội đầu, đói không tắm. Rửa mặt nước lạnh, vừa đẹp vừa khỏe. Mồ hôi chưa khô, đừng tắm nước lạnh. Đánh răng nước ấm, chống ê chắc răng.
2, Ăn gạo có trấu, thức ăn có chất sơ. Nam không thể thiếu rau hẹ, nữ không thể thiếu ngó sen. Củ cải trắng, sống không tốt nhưng chín thì bổ. Ăn không quá no, no không nên nằm.
3, Dưỡng sinh là động, dưỡng tâm là tĩnh. Tâm không thanh tịnh, ưu tư vọng tưởng dễ nảy sinh. Tâm thần an bình, bệnh sao đến được. Nhắm mắt dưỡng thần, tĩnh tâm ích trí.
4, Dược bổ thực bổ, đừng quên tâm bổ. Coi tiền như cỏ, coi thân như bảo. khói hun cháy lửa, tốt nhất không ăn. Chiên dầu ngâm ướp, ít ăn thì tốt.
5, Cá thối tôm rữa, lấy mạng oan gia. Ăn mặc giữ ấm, nhất thân là xuân. Lạnh chớ chạm răng, nóng chớ chạm môi. Đồ chín mới ăn, nước chín mới uống.
6, Ăn nhiều rau quả, ít ăn đồ thịt. Ăn uống chừng mực, ngủ dậy đúng giờ. Đầu nên để lạnh, chân nên giữ ấm. Vui chơi biết đủ, không cầu an dật.
7, Dưỡng sinh là cần cù, dưỡng tâm là tĩnh tại.
8, Người đến tuổi già, thì phải rèn luyện, đi bộ chạy chậm, luyện công múa kiếm; đừng sợ giá lạnh, quét sạch sân nhà, hội họa thêm vui, tấm lòng rộng mở;
9, Nghe tiếng gà gáy, đừng cố nằm thêm, trồng hoa nuôi chim, đọc sách ngâm thơ; chơi cờ hát kịch, không ham phòng the, việc tư không nhớ, không chiếm lợi riêng.
10, Ẩm thực không tham, bữa tối ăn ít, khi ăn không nói, không nên hút thuốc; ít muối ít đường, không ăn quá mặn, ít ăn chất béo, cơm không quá nhiều;
11, Mỗi ngày ba bữa, thức ăn phù hợp, rau xanh hoa quả, ăn nhiều không sợ; đúng giờ đi ngủ, đến giờ thì dậy, nằm dậy nhẹ nhàng, không gấp không vội;
12, Uống rượu có độ, danh lợi chớ tham, chuyện thường không giận, tấm lòng phải rộng.
13, Tâm không bệnh, nên phòng trước, tâm lý tốt thân thể khỏe mạnh; tâm cân bằng, phải hiểu biết, cảm xúc ổn định bệnh tật ít;
14, Luyện thân thể, động cùng tĩnh, cuộc sống hài hòa tâm khỏe mạnh; phải thực dưỡng, no tám phần, tạng phủ nhẹ nhõm tự khai thông;
15, Người nóng giận, dễ già yếu, thổ lộ thích hợp người người vui; thưởng thức thư họa, bên suối tọa thiền, lựa chọn sở thích tự do chơi;
16, Dùng đầu óc, không mệt nhọc, bớt lo dưỡng tâm ít náo nhiệt; có quy luật, sức khỏe tốt, cuộc sống thường ngày phải hài hòa;
17, Tay vận động, tốt cho não, phòng ngừa bị lạnh và cảm cúm.
18, Mùa hè không ngủ trên đá, mùa thu không ngủ trên phản. Mùa xuân không hở rốn, mùa đông không che đầu. Ban ngày hoạt động, tối ngủ ít mơ.
19, Tối ngủ rửa chân, hơn uống thuốc bổ. Buổi tối mở cửa, hễ ngủ là say. Tham mát không chăn, không bệnh mới lạ.
20, Ngủ sớm dậy sớm, tinh thần sảng khoái, tham ngủ tham lạc, thêm bệnh giảm thọ. Tranh cãi buổi tối, ruột như sát muối.
21, Một ngày ăn một đầu heo, không bằng nằm ngủ ngáy trên giường.
22, Ba ngày ăn một con dê, không bằng rửa chân rồi mới lên giường.
23, Gối đầu chọn không đúng, càng ngủ người càng mệt. Tâm ngủ trước, người ngủ sau, ngủ vậy sẽ thành mỹ nhân.
24, Đầu hướng gió thổi, ấm áp dễ chịu, chân hướng gió thổi, hãy mời thầy lang.
25, Không ngủ nơi ngõ hẻm, độc nhất khi gió lùa.
26, Đi ngủ không thắp đèn, sáng dậy không chóng mặt.
27, Muốn ngủ để tấm thân nhẹ nhõm, chân không hướng tây đầu không hướng đông

Sunday, October 12, 2014

TÁC HẠI CỦA VIỆC ĐI NGỦ MUỘN


Image


Từ 21-23h là quãng thời gian hệ miễn dịch (bạch cầu lymph) bài độc (đào thải chất độc), lúc này thái yên tĩnh hoặc nghe âm nhạc thư giãn.

+ Từ 23h – 1h sáng là quãng thời gian bài độc của gan, cần tiến hành trong khi ngủ say.

+ Từ 1h – 3h sáng là thời gian bài độc của mật, cũng cần thực hiện trong giấc ngủ say

* Ngủ muộn có nguy cơ gây ra nhiều bệnh tật.

+ Từ 3h – 5h sáng là thời gian bài độc của phổi. Cũng chính là lý do tại sao mà người đang mắc bệnh ho lại hay ho dữ dội vào lúc này, bởi hoạt động bài độc đã chạy đến phổi. Vì thế, không nên dùng thuốc chống ho để tránh gây cản trở việc đào thải các chất cặn bã trong người vào lúc này.

+ Từ 5h – 7h là khoảng thời gian ruột già bài độc, cho nên cần đi toalet vào lúc này.

+ Từ 7h – 9h là lúc ruột non hấp thụ chất dinh dưỡng nhiều nhất, cho nên cần phải ăn sáng. Những người đang phải trị bệnh tốt nhất ăn sớm hơn, từ trước 6h sáng, còn với người ăn dưỡng sinh thì ăn trước 7h sáng. Những người không ăn sáng cần thay đổi thói quen xấu này, dù có đợi đến 9, 10h mới ăn cũng tốt hơn là không ăn.

+ Từ nửa đêm cho đến 4h sáng là thời gian tủy sống tạo máu, cần phải ngủ say, không nên thức khuya.

* Tác hại của việc thức khuya, ngủ muộn:

1. Giảm trí nhớ.

2. Uể oải, khó tập trung chú ý vào công việc.

3. Ù tai, chóng mặt, mắt mờ.

4. Nóng nảy, cáu bẳn (dù có chú ý để tránh nổi nóng thì cũng vô ích, tới lúc nóng là không kiềm chế nổi).

5. Đau mỏi cơ, có thể thỉnh thoảng bị chuột rút. Đối với những người tập thể hình thì việc thức khuya sẽ giảm khả năng phục hồi và phát triển của cơ bắp.

6. Trung khu thần kinh uể oải thì thần kinh vị giác cũng trì trệ, dẫn tới ăn uống không ngon miệng.

7. Da mặt nhợt nhạt, thiếu sinh khí, nhiều dầu, đôi khi sần sùi và nổi mụn, dưới mắt có quầng thâm.
Thức khuya ảnh hưởng đến làn da, nhất là da mặt. Thông thường là khoảng từ 10-11 giờ đêm da ở trong trạng thái dưỡng và hồi phục. Nếu như thường xuyên thức khuya sẽ làm rối loạn hệ tuần hoàn bình thường của việc trao đổi chất và hệ thống thần kinh, sẽ khiến cho da bị khô, giảm sức đàn hồi, bị sạm và không mịn màng…

8. Khô mắt, mỏi mắt, và nếu mắt phải làm việc khuya trong điều kiện thiếu ánh sáng thì dễ bị giảm thị lực.

9. Thức khuya hay ngủ ít có thể dẫn tới nguy cơ tăng cân theo chiều hướng tiêu cực, có thể gây thêm các tác dụng khác là nguy cơ mắc bệnh tiểu đường, tăng huyết áp…

10. Bên cạnh đó thức khuya trong thời gian dài dẫn đến nguy cơ mắc bệnh ung thư cao hơn so với những người không thức khuya.

Theo đồng hồ sinh học thì:
- Trạng thái ngủ từ 0 đến 1 giờ sáng khiến cơ thể được nghỉ ngơi thực sự, giúp tinh thần sảng khoái, dung nhan tươi tắn khi tỉnh dậy. Nên ngủ trước đó tầm 1 hoặc 2 tiếng, để vào tầm thời gian nói trên thì đã chìm vào giấc ngủ sâu.

- Từ 1h tới 5h sáng là lúc cơ thể tiết ra các chất tái sinh và nâng cao hệ miễn dịch. Thức khuya thì rút ngắn hoặc thậm chí làm cơ thể bỏ qua giai đoạn này, lâu dần sẽ suy sụp thấy rõ.- Trong các giai đoạn ngủ sâu thì cơ thể tiết nhiều hooc môn để cân bằng và nâng cao sức đề kháng, mà thức khuya thì khiến hoạt động ấy xảy ra chậm và ít hơn.

Tác hại của việc thức khuya, ngủ muộn có rất nhiều, có loại về lâu dài mới phát tác, có loại thì ngay hôm sau đã có thể phát tác rồi, ví dụ như mắt thâm quầng, mệt mỏi, trí nhớ giảm sút. Thức khuya cũng ảnh hưởng đến hệ thần kinh. Nên nhớ rằng ban đêm hệ thần kinh giao cảm của con người sẽ nghỉ ngơi, vì ban ngày nó đã hoạt động rất mạnh để giúp con người làm việc và sinh hoạt. Nhưng những người thức khuya thì thần kinh giao cảm vẫn hoạt động mạnh. Như vậy, ngày hôm sau chắc chắn chúng ta sẽ cảm thấy mệt mỏi, sa sút tinh thần, đầu óc căng thẳng, trí nhớ kém, khó tập trung tư tưởng, phản ứng chậm, hay quên, chóng mặt, nhức đầu… Lâu ngày sẽ dẫn đến bị bệnh suy nhược thần kinh.

Friday, October 10, 2014

Công dụng của lá Kale



KALE có lượng cholesterol rất thấp ,chứa nhiều chất xơ hay sợi,chất đạm ,chất sắt ,calcium,sinh tố A,C,K,B6,FOLATE,POTASSIUM,MAGNESIUM,COOPER,THIAMIN,MANGANESE,có 45 loại flavonoids v.v và v.v…

Giúp thân thể chống chất độc và giúp đau nhức khớp ,bớt stress …còn nhiều và nhiều nhưng làm cách nào để thu thập tốt được trong những lá cải nầy .KALE rất rẻ chỉ có 99 cents 1 bó mà thôi ! Hiện giờ tới 2 bó lận…




Có nhiều cách để ăn hoặc uống loại nầy ,tốt nhất là mổi tuần ăn 2 đến 3 lần mổi lần ăn khoảng 2 đến 4 lá ,mổi bó có khoảng 8 hay 9 lá mà thôi ,và họ hàng nhà KALE có 4,5 loại ,thông thường mình thấy màu xanh green đậm ,healthfood store bán có màu tím nữa ,màu tím tốt hơn màu xanh ,nhưng cũng không hơn kém bao nhiêu mà purple KALE khó tìm hơn .Không nên mua nhiều vì nếu để tủ lạnh chỉ được 5 ngày và không rửa qua nước ,hút hết hơi trong bao ra cho KALE được giử độ xanh của nó ,vì giử lâu kale sẽ đắng dần.

CÁCH HẤP :

Rửa sạch lá ,cắt khúc chiều dài khoảng 2 lóng tay là dể ăn nhất ,sau khi cắt để KALE 5 phút sau mới hấp khoảng 4,5 phút là chín ,đừng làm chín quá chất bổ bị tiêu trừ thất thoát 1 ít, do đó 4 hay 5 phút hấp hoặc cho vào microwave 2, 3 phút là đủ ,ăn với chút xì dầu maggie và 1 chút nước cốt chanh, mình thì ăn không chắm gì cả ăn không mà thôi.

CÁCH XÀO :

Có thể cho vào cuối cùng khi xào với các loại rau cải khác ,đảo đều là tắt lửa múc ra ngay không cho quá chín cũng làm mất chất bổ.

XÀO VỚI TỎI:

Cũng như xào với các loại rau khác cho dầu veg đập ít lát tỏi ,phi cho thơm và cho KALE vào đảo qua đảo lại múc ra dĩa ngay ,nếu muốn nêm tí nước mắm ,xì dầu gì thì phải lẹ tay không thôi KALE chín quá,thêm tiêu ớt sau khi cho ra dĩa dùng với cơm hay ăn không cũng rất tốt.

TRỘN XÀ LÁCH :

Có thể trộn chung với các loại rau hoặc xà lách với chút ít nước chanh ,dầu ,tiêu tỏi ,muối hoặc xì dầu hay nước trộn người ta bán sẳn nhưng không trộn với những loại quá béo

Mình ăn loại rau nầy cho giảm lượng mở ,tăng hồng huyết cầu và các loại sinh tố chất xanh cần thiết ,giúp cân bằng bao tử ,đường ruột nên cũng không nên ăn quá nhiều ,cũng sẽ giảm cân, giúp đường ruột thải những chất không cần thiết và tốt cho màng bao tử đó.Ngủ ngon, bớt sưng nhức tay chân ,hạ mở tim mạch sẽ nhẹ nhàng hơn ,hợp với đi bộ 1/2 giờ mổi ngày sẽ giúp chúng ta ngày mổi khỏe mạnh hơn .

LÀM NƯỚC UỐNG :






Xay chung với những loại trái cây màu xanh ,táo xanh ,ray cải màu xanh cho những người bị huyết áp cao ,trị bón v,v…[ GREEN DRINK.],dùng máy blentec hay máy xay thịt xay nhỏ nát ra trước khi cho vào máy xay sinh tố bình thường nhớ cho thêm nước , vắt nước ra bỏ xác rồi mới xay nước nầy chung với trái cây tươi để làm nước uống.


Đặc biệt lần đầu tiên mình xay lá KALE với thơm và nước lọc ,đá ,khi hút một hút nó giống y hệt lá rau má ,cách dây mấy năm rồi nên bây giờ mình thích xay với thơm nhất để có mùi rau má thơm ngon.Thiệt là tuyệt vời…



Xay chung với blue berry, blackberry,strawberry,cherry…táo ,củ dền ,táo đỏ,cà rốt ,cà chua …cho bổ máu nhuận trường sáng mắt v.v…





Mong rằng các bạn và gia đình nào cần thiết thì ăn hoặc uống 1 thời gian ngắn sẽ thấy hiệu lực của nó . 

Thursday, October 9, 2014

Công dụng của Tỏi


1. Duy trì sức khỏe tốt
Cố gắng ăn 1-2 tép tỏi mỗi ngày sẽ giúp duy trì sức khỏe tốt nhất cho bạn. Bởi tỏi là thực phẩm giúp thúc đẩy sự trao đổi chất sắt, ngăn ngừa ung thư, chống vi khuẩn và vi rút. Do đó, nên đưa tỏi là một thành phần quan trọng trong chế độ ăn uống hàng ngày của bạn và gia đình
2. Chữa cảm lạnh hiệu quả
10 cách sử dụng tỏi cho công dụng tuyệt vời bà nội trợ chưa biết - 1

Từ lâu, tỏi đã được biết đến như là một liều thuốc điều trị ho và cảm lạnh. Và trong nhiều nghiên cứu khoa học còn chỉ ra rằng, tỏi sẽ giúp điều trị các bệnh mùa đông. Hãy nghiền một tép tỏi và đổ nó vào một cốc nước nóng, ngâm trong khoảng 5 phút. Sau đó, lọc tỏi ra và uống. Đây được coi là một loại si-rô ho tự nhiên.


Bạn cũng có thể cố gắng ăn 3 tép tỏi một ngày trong suốt mùa đông lạnh để ngăn chặn hiệu quả tình trạng cảm cúm.

3. Trị mụn
Cắt một nhánh tỏi làm 2 nửa rồi chà sát chúng trên khu vực da bị ảnh hưởng bởi các loại mụn. Thực hiện thường xuyên hành động này, các đặc tính kháng khuẩn có trong tỏi giúp điều trị mụn và làm sáng làn da bạn.
4. Điều trị vết loét
Giống như khi điều trị mụn trứng cá, bạn hãy cắt nhánh tỏi làm 2 nửa. Sau đó áp dụng nó trực tiếp đến những vết loét, vết đau. Điều này khiến bạn có thể bị đau nhói một chút, nhưng nó được chứng minh như một phương pháp điều trị và loại bỏ nhanh những vết loét khó coi.
5. Điều trị nấm chân
Khi bị nấm chân mà đã cầu viện tới tất cả những phương pháp khác nhau vẫn không khỏi, bạn có thể nhờ đến tỏi. Để điều trị nấm và giúp chân thư giãn hơn sau 1 ngày mệt mỏi, bạn có thể ngâm chân trong nước ấm với tỏi và đinh hương trong khoảng nửa giờ.
6. Là loại thuốc trừ sâu tự nhiên
Bạn có thể sử dụng tỏi như một loại thuốc trừ sâu tự nhiên trong vườn nhà bạn. Điều này giúp bạn không cần phải sử dụng đến những loại thuốc trừ sâu độc hại, đầy hóa chất và mùi khó chịu.
7. Loại thuốc đuổi muỗi
Để đuổi muỗi khỏi đốt bạn, bạn có thể chà xát tỏi trên da của bạn. Hoặc nếu bạn thích, bạn cũng có thể bỏ nhánh tỏi đã bóc vỏ ở những nơi nhiều muỗi cũng giúp xua đuổi muỗi hiệu quả.
8. Bảo vệ chó mèo, vật cưng khỏi bọ chét

10 cách sử dụng tỏi cho công dụng tuyệt vời bà nội trợ chưa biết - 2

Tỏi sẽ giúp bảo vệ chó mèo của bạn khỏi tình trạng bọ ​​chét, ve và nhiều sinh vật gây phiền toái khác. Song, tỏi có thể rất độc đối với động vật. Thế nên, bạn chỉ cho một lượng nhỏ tỏi thường xuyên vào thức ăn của vật nuôi thôi nhé.





9. Sửa chữa kính
Nếu kính của bạn bị xước nhẹ, bạn có thể nghĩ tới một biện pháp sửa chữa kính nhanh chóng. Đó là chà xát nước cây đinh hương và chút tỏi nghiền nát lên vết xước trên kính. Sau đó, lau chúng qua lại trên bề mặt. Tỏi sẽ hoạt động như một chất kết dính tự nhiên, vì vậy nó sẽ giúp kính khắc phục nhược điểm và ngăn chặn tình trạng trầy xước nhẹ.
10. Thuốc khử trùng
Đập 3-4 nhánh tỏi, để chúng vào một chai xịt đầy giấm trắng. Thêm một vài giọt tinh dầu chanh. Bạn có thể tạo cho mình một loại thuốc khử trùng bề mặt tự nhiên riêng cho bản thân.