'cookieChoices = {};'
Showing posts with label Lịch sử Việt Nam. Show all posts
Showing posts with label Lịch sử Việt Nam. Show all posts

Friday, November 7, 2014

36 Phố phường Thăng Long



Từ năm 1831, thành Thăng Long được đổi tên là Hà Nội qua sắc dụ thành lập và phân chia ranh giới các tỉnh thành của vua Minh Mạng. Vì thế trước đây tại khu phố cổ sinh hoạt buôn bán đông đúc và tấp nập nhất của Hà Nội được gọi là Thăng Long 36 phố phường. Trong cuốn Bắc Thành Dư Địa Chí do tiến sĩ Lê Chất của triều Nguyễn, nguyên là Tổng trấn Bắc Thành trước đây, có chép về 36 phố phường làm nghề của Thăng Long (Hà Nội) như sau:



"Thăng Long từ xưa là đất Kinh thành, bốn phương đi lại tấp nập, bao nhiêu hóa vật cũng tụ ở đó, ngày trước có đặt ra 36 phố phường, đến nay cũng còn ít nhiều. Những nghề nghiệp của dân, những vật liệu sản xuất cũng có thể kể qua được, như phường Thái Cực (tục gọi Hàng Đào) thì có nghề nhuộm, phường Đông Hà (tục gọi Hàng Bát) thì có nghề buôn chiếu.

Lại như phường Đông Lạc thì bán A tử, phố Hàng Đông thì bán đồ đồng, phường Báo Thiên thì bán dù xanh bằng vải, phường Đông Vụ thì bán những đồ làm bằng vàng bạc, phường Diên Hưng (tục gọi là Hàng Ngang) thì người Tàu ở lẫn với người Nam, cùng buôn bán thuốc bắc và tạp hóa, phường Hà Khẩu (tục gọi là Hàng Buồm) thì người Nam cũng ở lẫn với người Tàu, cùng buôn sách vở và tạp hóa, phường Thụ Cổ thì đúc đồ thiếc, phường Kim Hoa thì dệt đoạn nội hóa, phường Tây Hồ thì nấu lụa, phường Thạch Khối thì nung vôi, phường Thụy Chương, phường Võng Thị thì có nghề nấu rượu.



Các phường Nghi Tàm, An Hoa, Nhật Chiêu, Quảng Bố thì có nghề nuôi tằm. Các phường Hồ Khẩu, An Thái, Trích Sài, Bái Ân thì có nghề làm giấy ngũ sắc và dệt the. Các phường Đồng Xuân, Cổ Vũ, Vinh Thái, Phúc Lâm, Đắc Thọ, Hồng Mai, Đông Tác, Xã Đàn, An Hội, Hoè Giai, Thịnh Quang, Công bộ Quan tự thì đều có nghề buôn bán tạp hóa, duy có phường Bích Câu thì xiêu tán đã lâu.”

Rủ nhau chơi khắp Long thành
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai
Hàng Bồ, hàng Bạc, hàng Gai
Hàng Buồm, hàng Thiếc, hàng Bài, hàng Khay
Mã Vĩ, hàng Điếu, hàng Giầy
Hàng Lờ, hàng Cót, hàng Mây, hàng Đàn
Phố Mới, Phúc Kiến, hàng Ngang,
Hàng Mã, hàng Mắm, hàng Than, hàng Đồng
Hàng Muối, hàng Nón, cầu Đông
Hàng Hòm, hàng Đậu, hàng Bông, hàng Bè
Hàng Thùng, hàng Bát, hàng Tre
Hàng Vôi, hàng Giấy, hàng The, hàng Gà
Quanh đi đến phố hàng Da
Trải xem hàng phố, thật là cũng xinh
Phồn hoa thứ nhất Long thành
Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ
Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ
Bút hoa xin chép vần thơ lưu truyền
(Ca dao)

Hà Nội 36 phố phường nằm quanh quẩn trong quận Hoàn Kiếm ngày nay, khá nhỏ so với diện tích tổng thể của Hà Nội. Dưới đây là đoạn chép về thành trì Hà Nội trong bộ Đại Nam Nhất Thống Chí của Quốc sử quán triều Nguyễn:

"Thành tỉnh Hà Nội: Chu vi 432 trượng, một thước hai tấc, hào rộng trên dưới một trượng. Thành có năm cửa, ở vào đất hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận. Từ đời Lê trở về trước, đều đóng đô ở đây, còn gọi là thành Phụng Thiên, ở trong thành Đại La, lâu ngày đã đổ nát. Đến khi Tây Sơn chiếm giữ, mới nhân nền cũ, đắp thành chung quanh, suốt từ cửa Đông Hoa đến cửa Đại Hưng.

Đầu năm Gia Long triều ta, lấy nơi đó làm lỵ sở của Bắc Thành. Năm Gia Long thứ 3 (1804), các quan bàn rằng thành này đời Tây Sơn làm không hợp quy củ, tâu xin sửa lại. Năm thứ tư (1805), sai quan đốc thúc xây thành. Trong thành dựng hai tòa chính điện hành cung (cung tạm thời để vua ngự khi đi ra ngoài tuần du), bên tả bên hữu mỗi bên làm một nhà Giải vũ (nơi dừng chân nghỉ mát). Mặt sau dựng ba toà Nội điện, bên tả bên hữu đều có hai nhà Giải vũ. Sau điện có dựng lầu Tĩnh Bắc. Bốn mặt Nội điện đều xây tường gạch.

Lại ở trước chính điện lấy đá xây một đường hành lang thẳng ra cửa Đoan Môn, có biển đá khắc hai chữ "Đoan Môn" đấy là di tích của triều Lý. Ngoài cửa xây nhà bia để dựng bia, xây kỳ đài để cắm cờ, quy chế rất rộng rãi. Đến năm Minh Mạng thứ 12 (1831) chia tỉnh, đặt nơi này làm thành tỉnh Hà Nội. Năm thứ 16 (1835) vì cho là thân thành quá cao nên hạ thấp xuống một thước tám tấc. Những năm Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị đều dùng nơi này làm chỗ bang giao."

 DXGK

Sunday, September 21, 2014

Bà Chúa Ngựa

Chuyện kể rằng, trong thời kì Trịnh Nguyễn phân tranh từ năm 1627 đến năm 1672,  nửa thế kỷ giao tranh giữa hai thế lực phong kiến, chiến sự xảy ra dọc bờ sông Lam, sông Gianh. Nhưng vùng Đông Thành là nơi Chúa Trịnh tuyển lựa binh lính, vơ vét thóc gạo, tập trung lực lượng để vào đánh Chúa Nguyễn. Chúa Trịnh Giang trong một lần đi thuyền dọc sông Bùng, đến khúc sông gần làng Cầu Lửa Hạnh Kiều thì chợt nghe một giọng hò trong trẻo vút lên:
                             Một ngày tựa mạn thuyền rồng
                        Còn hơn tối tối ôm ông hàng dầu
Chúa cho thuyền đến gần thì gặp một cô gái đang vừa bắt cáy, vừa hò hát ven sông. Cô gái mặc bộ quần áo nâu sồng lấm lem bùn đất nhưng lại toát lên vẻ đẹp hoang sơ, trong trắng từ nước da bánh mật, dáng người nở nang, khuôn mặt trái xoan, đặc biệt là đôi mắt bồ câu đen láy ngước lên nhìn Chúa một cách tình tứ. Sau một lát ngơ ngẩn trước vẻ đẹp mê hồn của cô gái lạ, như trời xe đất đặt, Chúa cho dừng thuyền rồi mời cô gái lên khoang.
Sự gặp gỡ kì ngộ bất ngờ ấy đã để lại một đứa con rai, nhà Chúa đặt tên cho người con gái ấy là Quận Chúa Trịnh Thị Ngọc Hân. Từ đó hễ lúc rảnh việc quân là Chúa Trịnh Giang lại về làng Cồn Lửa – Hạnh Kiều thăm vợ con.
Thừa hưởng nhan sắc trời phú của người mẹ, Quận Chúa Trịnh Thị Ngọc Hân khi lớn lên cũng trở thành một cô gái đẹp nghiêng nước nghiêng thành và được nhà Chúa gả cho quan đại thần Nguyễn Cảnh Chinh. Nhưng khác với mẹ, khi làm vợ quan đại thần. Quận Chúa càng đẹp bao nhiêu lại càng đòi hỏi nhục dục bấy nhiêu, một sự đòi hỏi ghê gớm vượt quá sức chịu đựng của một người chồng bình thường nên quan đại thần để nàng ở quê ngoại rồi tìm cách xin đi công cán dài ngày ở nơi xa. Những lúc vắng chồng, Quận Chúa cho gọi những đầy tở khỏe mạnh vào “hầu”, về sau gọi cả những quan lại thuộc cấp trong vùng đất quân cấp của nhà Chúa. Một số quan lại xu nịnh hóng hớt sở thích ham muốn của quận Chúa cũng săn tìm những tráng đinh khỏe mạnh đem đến dâng Quận Chúa để lấy lòng. Thường thì một đêm Quận Chúa cho một người vào “hầu”, nhưng nhiều đêm Quận Chúa cho gọi hai ba người lên phòng. Có lúc cho gọi cả ban ngày. Những người này khi bước vào phòng Quận Chúa thì vui vẻ hăm hở nhưng khi ra thì ỉu xìu có người lè lưỡi lắc đầu, vịn bờ rào ra về nhưng ít hôm sau lại thấy có mặt ở bến sông. Chẳng mấy chốc mà tiếng tăm về sắc đẹp và sắc dục của Quận Chúa vang khắp vùng. Dần dần bà con các làng dọc sông Bùng không gọi bà là Quận Chúa Trịnh Thị Ngọc Hân mà gọi gọi bà bằng tục danh bà Chúa Ngựa.
Năm qua tháng lại, chẳng mấy năm mà nhan sắc của Quận Chúa cũng tàn phai. Khi bà Chúa Ngựa qua đời, Chúa Trịnh Giang giao cho làng Cầu Lửa Hạnh Kiều lập đền thờ hai mẹ con bà tại xứ Cồn Long và ban cho làng này một đặc ân là được phép chờ lúc trời lụt to nước sông Bùng dâng cao đem thóc lép ra đổ trên sông, thóc lép trôi đến đâu thì cho người ra cắm vè nhận ruộng ở đó, xem như đó là giới cận mà Chúa ban cấp cho làng Cầu Lửa – Hạnh Kiều.
Trong đám quan quân của Chúa Trịnh, có nhiều người  con dân của các làng lân cận biết trước chuyện này về mật báo với dân làng mình. Nhiều làng huy động nhân dân tranh thủ đắp bờ ngăn nước, đem rơm rạ, tre nứa ra vây khắp đồng ruộng ngăn không cho thóc lép trôi vào đồng. Nhưng chỉ ngăn được nơi cao, còn nơi thấp thóc lép vẫn theo dòng nước trôi về. Có làng huy động tất cả già trẻ mang theo gậy gộc giáo mác quyết sống mái để giữ đất. Nhiều nơi xảy ra xô xát tranh chấp, có nơi xảy ra án mạng.
Làng Cầu Lửa Hạnh Kiều được đất, xem bà Chúa Ngựa là ân nhân nên đã góp công của lập đền thờ gọi là đền bà Chúa. Nông dân các làng xung quanh, vốn đã khổ cực vì phải đi phu đi lính, sưu cao thuế nặng nay lại bị mất ruộng đất giữa ban ngày nên họ đã sáng tác nhiều thơ ca hò vè đả kích, lên án hành động của những kẻ cướp đất:
                                -  Thà rằng chết chém chết đâm
                        Đừng cho Cầu Lửa Hạnh Lâm vào nhà!
                           - Con ơi nhớ lấy câu này
                  Cướp đêm là giặc cướp ngày là quan!
Có làng thề không quan hệ với làng Cầu Lửa Hạnh Kiều. Đền bà Chúa nay vẫn còn. Nổi tiếng linh thiêng. Chuyện xưa đã đi vào dĩ vãng, dân làng Cần Lửa Hạnh Kiều và các làng lân cận  không còn thù oán nhau nữa mà họ cùng nhau đến đến bà Chúa thắp hương tưởng niệm cầu mong cho  mưa thuận gioa hòa, quốc thái dân an, nhân cường vật thịnh. Nghe nói có nhiều nam thanh nữ tú đi lễ đền Bà Chúa đem về năm mơ thấy người đẹp sông Bùng. Người thì thấy một cô gái đẹp mặc bộ nâu sồng, lại có người thấy Quận Chúa lộng lấy trong bộ xiêm y đang vừa chèo thuyện vừa ca hát trên sông Bùng.

Thursday, September 18, 2014

Nguyên phi Ỷ Lan



Trong lịch sử của Việt Nam, Nguyên phi Ỷ Lan là một trong những người phụ nữ hiếm hoi vừa có sắc đẹp trời phú, vừa có học vấn uyên thâm và quyền lực to lớn trong triều đình. Bà cũng được ghi nhận là người có công lao to lớn trong việc đem lại sự thịnh trị cho triều Lý.
Tuy vậy, trong cuộc đời của người phụ nữ huyền thoại này không phải là không có những vết nhơ. Đó chính là vụ bức tử Hoàng hậu Thượng Dương cùng 72 cung nữ vào năm 1073.

Theo các sử liệu, cho đến năm 40 tuổi, vua Lý Thánh Tông vẫn không có con. Ước nguyện có người nối dõi của vua chỉ trở thành hiện thực sau khi ông lấy Ỷ Lan và được nàng sinh cho hai đứa con trai, người con trai đầu là Thái tử Càn Đức và người con thứ hai là Minh Nhân Vương.

Năm 1072, vua Lý Thánh Tông qua đời, thái tử Càn Đức bấy giờ mới 6 tuổi lên nối ngôi, niên hiệu là Lý Nhân Tông. Hoàng hậu Thượng Dương là vợ cả nên được tôn phong là Dương thái hậu, trong khi Ỷ Lan là vợ thứ nên chỉ được tôn là Linh Nhân thái phi.

Theo luật xưa, khi hoàng đế lên ngôi lúc còn nhỏ tuổi thì thái hậu sẽ được quyền nhiếp chính. Như vậy, chỉ vì các quy định của triều đình mà Ỷ Lan, vừa là mẹ vua, vừa là một người có tài chính trị nhưng lại mất quyền nhiếp chính vào tay Dương thái hậu – người không thể sinh nổi cho vua một mụn con. Điều này khiến bà tức tối và tìm cách chiếm quyền nhiếp chính.

Một thời gian sau khi vua mất, Ỷ Lan đã bàn mưu tính kế cùng Lý Thường Kiệt và giả ốm để chờ hoàng thượng nhỏ tuổi tới thăm, nhằm tận dụng hoàn cảnh cũng như mối quan hệ mẹ con để đánh vào tình cảm của Lý Nhân Tông.

Đúng như tính toán của bà, khi nghe tin mẹ ốm, hoàng thượng đã vội vã vào cung thăm hỏi ngay sau buổi lên triều. Ỷ Lan không bỏ lỡ cơ hội khóc lóc, than vãn về sự bất công trong triều đình và khéo léo truyền đạt ý muốn được nhiếp chính của mình đến với nhà vua. Màn kịch hoàn hảo của Ỷ Lan đã khiến Lý Nhân Tông hoàn toàn bị bà chi phối.

Dưới sự dẫn dắt của Ỷ Lan, vị vua trẻ đã quyết định đày Dương thái hậu cùng 72 cung nữ thân cận vào lãnh cung. Với đầu óc mưu lược của mình, Ỷ Lan đã giành lại được địa vị tối cao trong triều đình nhà Lý.

Số phận của Dương thái hậu và các cung nữ đã kết thúc một cách bi thảm. Thái hậu đã phải tự sát bằng dải lụa trắng mà vua ban cho. 72 cung nữ phải từ giã cõi đời một cách khốn khổ hơn: bị bỏ đói đến chết…


Từ thân phận của một cô gái hái dâu, Ỷ Lan đã trở thành một trong những người phụ nữ quyền lực nhất trong lịch sử Việt Nam.

Quanh vụ thảm án này, còn có một lời kể khác được ghi lại. Theo đó, Thượng Dương hoàng hậu do không có con nên đã sai thuộc hạ bắt trộm Thái tử Càn Đức về làm con mình, đồng thời vu cho Ỷ Lan sinh ra cầm thú. Càn Đức lớn lên trong vòng tay của hoàng hậu và luôn nghĩ rằng bà là mẹ đẻ của mình.

Phải đến sau khi Càn Đức lên ngôi, nhà vua mới biết Nguyên phi Ỷ Lan là mẹ ruột của mình. Vì oán hận mưu gian của hoàng hậu, vua cùng mẹ mình đã ra lệnh giết 72 cung nữ trong Thượng Dương cung. Dương thái hậu vì biết trước điều này nên đã kịp thời bỏ trốn.

Dù nguyên nhân thực sự của vụ việc này là gì thì hành vi của Nguyên phi Ỷ Lan vẫn là điều đáng bị lên án. Ỷ Lan hiểu rõ điều này nên về cuối đời đã vô cùng hối hận. Bà đã cho xây 72 ngôi chùa để tỏ lòng sám hối và độ sinh cho hoàng hậu Thượng Dương cùng 72 cung nữ.

Cũng vì thảm án kể trên mà các nhà chép sử khi xưa tỏ ra khá dè dặt khi đề cập đến Ỷ Lan, dù ghi nhận công lao của bà trong việc tạo dựng nên một nền văn hóa rực rỡ thời Lý.

Cho đến tận thời hiện đại, các sử gia vẫn tranh cãi về tính chất của tội lỗi mà Ỷ Lan đã mắc phải.

TS sử học Đinh Công Vỹ cho rằng, Nguyên phi Ỷ Lan không thể được dung thứ vì đã phạm tội giết người hàng loạt chỉ vì sự tham lam quyền lực, sự ích kỉ cá nhân đã giết chết mọi nhân tính.

Một số nhà sử học khác thì biện hộ cho Ỷ Lan với lý lẽ rằng, trong nền chính trị cung đình thời xưa, những hành động thanh trừng như vậy là điều thường gặp.

Trong khi đó, PGS-TS Nguyễn Minh Tường (Viện Sử học Việt Nam) lưu ý rằng dưới triều Lý có tục “tuẫn táng”, tức là khi vua, hoàng hậu hay thái hậu mất thì triều đình có thể chôn theo cung phi để hầu hạ ở thế giới bên kia. 72 cung phi của Dương thái hậu có thể đã phải chết vì nguyên cớ này.

Thursday, September 4, 2014

Hoàng cung tuyển đầu bếp


Thỉnh thoảng chúng ta vẫn nghe đến danh từ "trù", tức cái bếp. Đầu bếp nấu ăn thì gọi là "trù sư", đầu bếp giỏi là "thần trù". Danh từ ngày xưa dùng trong cung đình triều Nguyễn tại Huế chỉ việc bếp núc là "Nội trù", vốn là tên của một ngôi sao nằm ở hướng tây nam trong dãy Ngân hà.

Trong khoản đi chợ nấu bếp "Nội trù" đó, triều Nguyễn lại chia ra 3 đội riêng. Đội thứ nhất là ty Lý Thiện lo việc nấu ăn trong các lễ giỗ, yến tiệc, cúng tế. Đội thứ nhì là Phụng Thiện lo nấu nướng cho 3 bà trong Tam Cung: vợ vua, mẹ vua và bà nội vua, cộng thêm các bà vợ lẽ trong Lục Viện có 6 cấp bậc dưới hậu phi gồm: tần, giai, tiệp dư, quý nhân, mỹ nhân và tài nhân. Đội thứ ba là Thượng Thiện lo việc nấu ăn cho vua

Theo sách Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ của Nội các triều Nguyễn thì việc tuyển chọn các đầu bếp cho 3 đội nấu ăn trong cung đình được quy định như sau. Đắc Xuyên Gia Khang xin trích lược.

“Ty Lý Thiện:
- Gia Long năm đầu (1802), chiêu mộ dân ngoại tịch, lập làm Nội trù thuyền (đội nấu ăn thứ I) hơn 100 tên, Nội trù thuyền nhị (đội thứ II) hơn 70 tên, Nội trù thuyền tam (đội thứ III) 50 tên. Lại đặt đội Trung cần (đội phụ) gồm 60, 70 tên. Lại bắt thêm các hạng dân xã Phúc Yên theo các thuyền phụ làm việc công.

Minh Mạng năm thứ 14 (1833), tâu được chuẩn: chức vụ các ty Lý Thiện như: lễ phẩm tế tự, tiệc tùng, cỗ bàn cơm nước đồ ăn, đều nên theo tuần tiết mà sửa soạn. Phàm được mệnh làm lễ Tế Giao, thời các phẩm vật: xôi và hoa quả, đều để vào mâm bồng hoặc phạng vuông phạng tròn bằng gỗ hay bằng đồng. Trước khi nhận tờ tư của bộ Lễ đưa đến, phải kính cẩn lau rửa sạch sẽ, đầy đủ, rồi giao cho viên ở tư kính dâng lên đàn tế, sau đó bộ hay tự xem xét dâng lên.

Minh Mạng năm thứ 20 (1839), tâu được chuẩn: xã Phúc Yên, nguyên không có lệ tuyển binh, dân sở tại chỉ phụ làm các công việc ở ty Lý Thiện...Lại chọn dân xã ấy, nên lựa những người thạo việc, để đảm đương công việc. Nếu chỉ dùng những lũ vô dụng cho đủ ngạch, để tiện bán ra lấy và mưu toan lợi riêng, sinh ra tệ hại thì phải đem viên quản suất nghiêm trị không tha.

Thiệu Trị năm thứ 2 (1842), có tâu được chuẩn: biền binh (nhân lực) trong các ty Lý thiện là 350 tên. Nguyên lệ (giữ theo lệ cũ) ty Lý Thiện chuyên làm cỗ bàn mỹ vị, ty Tả chuyên làm kẹo, bánh, đồ nước (thức uống), ty Hữu chuyên việc quẩy gánh dâng tiến.









Đội Phụng Thiện:
- Lệ định số binh là 30 người, chọn ở các ty Lý Thiện sung bổ vào. Những năm dưới thời Minh Mạng: chuẩn định chọn 22 binh ở các ty Lý Thiện ứng trực tại cung Từ Thọ.

Đội Thượng Thiện:
- Lệ định: Mộ binh là 50 người; nếu có thiếu, thì lấy biền binh các ty Lý Thiện sung bổ vào.

Minh Mạng năm thứ 14 (1833) tâu, được chuẩn: chức sự đội Thượng Thiện phàm ngày tiến các thứ ngọc thực, mỹ vị, đều chuẩn theo đúng cách thức nấu món ăn mà làm. Phàm thứ gạo quý nào dành cho vua dùng thì chiếu cho bộ Hộ chuyển tiến, mỗi tháng 3 lần phải kính cẩn kiểm tra cho đủ.

Đến như nước lã dùng hàng ngày, cung tiến vào trong cung ngự, do chức chuyên tư việc ấy cung nạp, phải kính cẩn soi xét, lọc gạn trong sạch cho đúng phép. Về phần hộ kiếm cá, hàng ngày tiến cá tươi. Hộ kiếm củi, hàng tháng cung củi đóm, đều chiếu số đăng ký cho đủ dâng dùng. Phàm khi nấu món ăn, cốt phải mười phần tinh sạch. Còn vật liệu đáng dùng và số tiền chi tiêu, thì chiếu lĩnh ở Nha môn.

Đến như sở Thượng Thiện có đủ lệ cấm giới, những nhân viên không có bổn phận thì không được ra vào, cùng những vật nhất thiết cấm kỵ. Không được vi phạm chút nào"

Mặc dù đã rèn luyện tay nghề khá thuần thành, lại có luật rất nghiêm ngặt trong các đội bếp nấu ăn nhưng thỉnh thoảng vẫn có những sơ xuất xảy ra như đoạn chép sau đây trong bộ sử Đại Nam Thực Lục của Quốc sử quán triều Nguyễn:

"Ngày Ất Sửu (lễ giỗ) kỵ ở Hưng Miếu (miếu thờ ông nội của vua Minh Mạng). Vua thân đến làm lễ, xem các đồ tế và cỗ bàn có chỗ không được mười phần tinh khiết lập tức bắt quản ty Lý Thiện là Bùi Văn Tính đánh mắng, kiêm quản là Lê Thuận Tĩnh bị phạt bổng 6 tháng. Nhân sắc (dụ) rằng từ nay gặp tế hưởng và ngày kỵ, những phẩm nghi dâng cúng thì viên quản lý phải tự mình kiểm xét sao cho sạch sẽ tươm tất. Nếu còn sơ suất, tất giao cho bộ nghị xử."

Khi đi chợ mua nguyên liệu sản vật về chế biến thức ăn thì các đầu bếp không được mua đồ rẻ hoặc trả giá. Đại Nam Thực Lục ghi:

"Cấm người Thượng Thiện mua rẻ vật ở chợ: Vua (Gia Long) bảo Ký lục Quảng Đức là Nguyễn Văn Hưng rằng:

“Kinh thành là nơi đô hội, buôn bán đông đúc, gần đây nghe nói người Thượng Thiện và nhà bếp ở các nha môn, nhiều kẻ lấy thanh thế nạt người mà mua hàng rẻ, người ở chợ lấy làm khổ. Trẫm muốn luật pháp thi hành từ chỗ gần, cho nên ra lệnh cho người Thượng Thiện đều đeo tín bài để biết (bài khắc hai chữ Thượng Thiện), hễ dám làm càn điều phi pháp thì bắt trị không tha.

An Khánh công Quang cho tôi tớ trong phủ đi mua rẻ hàng ở chợ, bị phạt bổng 1 năm. Vua nhân đó (ra chỉ) dụ cho bộ Hình rằng:

“Nơi Kinh kỳ pháp lệnh rất nghiêm, thế mà từ trước đến nay nhiều bọn cậy thế áp bức bình dân, uy hiếp mua bán. Trước đã từng bảo trước mắt cho Kinh doãn phải bắt trị tội. Nếu không nêu rõ lệnh cấm thì sao tỏ rõ pháp luật của nước để cho dân tin? Từ nay phàm nhà bếp ở sở Thượng thiện và các nha, cùng những bọn côn đồ vô lại mà dám mua rẻ hàng hoá ở chợ phố, đều tâu rõ ngay, đem chém ngay tại địa phương cho mọi người biết. Ghi làm lệnh”

Tể tướng



Thời quân chủ, Tể tướng đứng đầu trong các quan chức. Tể tướng có nhiều tên gọi khác như: Thừa tướng, Tướng quốc, Bình chương sự, Tư đồ, Thượng thư lệnh, Nội các đại học sĩ, Tham tụng (thời chúa Trịnh, vua Lê)… Tể tướng thay mặt vua điều hành công việc xã tắc. Tương đương với nhiều thể chế chính trị ngày nay: thủ tướng điều hành việc quốc gia hành chính thay mặt cho người đứng đầu là quốc trưởng, tổng thống, quốc vương, nữ hoàng...mà đa số mang chức vị theo tính cách lễ nghi.

Tể tướng có từ đời vua Lê Đại Hành ở cuối thế kỷ thứ 10 và chấm dứt đầu đời nhà Nguyễn khi Minh Mạng ra dụ sắc "Tứ bất lập" (không sách lập/phong 4 chức) gồm Hoàng hậu, Thái tử, Tể tướng và Trạng nguyên để tránh chuyên quyền đổ máu. Tuy thay mặt vua điều hành việc quốc gia đại sự nhưng nhiều ông Tể tướng có thế lực và uy quyền to tát lấn át cả vua.Tể tướng nổi tiếng nhất Việt Nam là Trần Thủ Độ, người đã có công lớn nhất trong việc khai sáng nhà Trần. Tể tướng có tiếng nhất của Tàu là Tào Tháo.

Nhà bác học lớn thứ nhì của Việt Nam, sau Lê Qúi Đôn là Phan Huy Chú (1782-1840) trong bộ bách khoa "Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí" đã viết về chức vụ Tể tướng như sau.

"Chức Tể tướng, đời Đinh về trước tên gọi là gì không thể khảo rõ được. Lê Đại Hành (năm 995) đặt quan, mới có chức tổng quản coi việc quân dân, cho Từ Mục làm chức ấy, tóm giữ việc nước, tức là việc của Tể tướng. Lý Thái Tổ mới dựng nước, cho Trần Cao làm Tướng công, tên chức rất quê (mùa). Thái Tông nối ngôi, mới dùng chức Phụ quốc thái uý giữ chính sự, chức nhiệm cầm cân, tức là Tể tướng. Đến đời Nhân Tông lại thêm mấy chữ "Kiểm-hiệu Bình-chương Quân-quốc trọng-sự", thì tên quan cũng (tao) nhã mà chức vụ càng trọng.

Đầu đời Trần, Thái Tông đặt quan, đổi làm Tả hữu Tướng quốc, kiêm Kiểm hiệu đặc tiến khai phủ nghi đồng tam Bình chương sự, tức là chức Thái uý phụ quốc của đời Lý. Từ đời Kiến Trung (1225-1232) về sau, đều dùng thân vương trong tôn thất làm chức ấy, gia phong tước quốc công. Những người hiền tài họ khác, dầu được chọn vào chính phủ, chưa từng được làm chức Bình chương, vì lấy sự thân với người thân làm trọng, đó là thể lệ đặt chức Tể tướng của triều trần.

Cái tệ về sau là để họ ngoại chuyên quyền rồi đến cướp ngôi. Cuối đời Trần, Lê (Hồ) Quý Ly cho họ ngoại cầm quyền, tiến phong Tư không đồng Bình chương, gia đến Phụ chính Thái sư, Quốc tổ chương hoàng, rồi cướp ngôi nhà Trần.

Triều (hậu) Lê, Thái Tổ (Lê Lợi) cũng đặt chức Bình chương, nhưng lúc đầu vội vàng, chức danh chưa trọng. Sau khi dẹp giặc Minh, đặt chức Tướng quốc, gia thêm "Kiểm-hiệu Bình-chương quân-quốc trọng-sự", tên gọi cũng theo như nhà Trần. Đến đời Thánh Tông đặt quan mới bãi chức Bình chương Tướng quốc, việc cầm quyền giao riêng cho trọng thần (đại thần) kiêm thêm, không đặt tên quan khác.

Đến đời Hồng Thuận (1509-1516), Tương Dực đế lại đặt chức Bình chương phụ quốc, lại có tên gọi Thừa tướng, Thượng tể. Danh hàm tôn trọng, so với đời trước hơn hẳn, nhưng cường thần chuyên quyền, mối loạn cũng gây ra từ đấy. Lúc đầu thời Trung hưng, Lượng quốc công Trịnh Kiểm dự chính quyền, (được) tiến phong chức Thượng tướng Bình chương quân quốc trọng sự, Trưởng quốc công.

Trịnh Tùng nối quyền, (được) phong chức Tả tướng thái úy, đều là làm việc của Tể tướng, mà việc quân cùng mọi việc đều quyết định trước, quyền cao chức trọng của Tể tướng thời bình không thể bằng được. Đời Quang Hưng, sau khi đã diệt nhà Mạc, Trịnh Tùng tiến lên ngôi vương (tức chúa Trịnh, làm việc cho vua Lê). Để bàn chính sự ở Phủ đường.

Từ đấy về sau, chính sự thuộc về phủ chúa, Tham tụng tức là Tể tướng, nhưng đó chỉ là quyền chứ không phải là chức. Cho nên khi chọn dùng người, không có phẩm thứ, có khi là Thượng thư (tương đương với chức bộ trưởng ngày nay) vào làm Tham tụng, có khi là Thị lang (phó Thượng thư) mà hành việc Tham tụng, các đời noi theo lệ ấy cho đến cuối triều Lê.

Đến khi (Lê) Chiêu Thống nối ngôi, nhà vua nhất thống (ý nói quyền hành về tay vua hết chứ không thuộc về phủ chúa Trịnh nữa), mới bãi chức Tham tụng mà đặt lại Bình chương. Lại theo quan chế cũ, nhưng thế nước đã nghiêng đổ, không thể làm gì được, chẳng bao lâu mà biến cách"

Đoạn viết trên của Phan Huy Chú giải thích khá rõ nét về quan chức đứng đầu ngày xưa. Mời các bạn đọc thêm những đoạn có nhắc đến chức vụ "Tể tướng" được ghi chép trong sách "Đại Việt Sử Ký Toàn Thư"

“Mậu Thìn (1088) mùa xuân tháng Giêng, phong nhà sư Khô Đầu làm Quốc sư, cùng với Tể tướng đứng trên điện, xét đoán công việc và đơn từ kiện tụng của thiên hạ.

Đinh Hợi (1227) Tuyên bố các điều khoản lễ minh thệ, theo như lệ cũ của triều Lý và bắt đẫu định việc thực hiện. Nghi thức lễ đó như sau: Hàng năm vào ngày mồng 4 tháng 4, tể tướng và trăm quan đến trực ngoài cửa thành từ lúc gà gáy, tờ mờ sáng thì tiến vào triều.

Vua ngự ở cửa Hữu Lang điện Đại Minh trăm quan mặc nhung phục lạy hai lạy rồi lui ra. Ai nấy đều thành đội ngũ, nghi trượng theo hầu ra cửa Tây thành, đến đền thờ thần núi Đồng Cổ, họp nhau lại uống máu ăn thề. Quan Trung thư kiểm chính tuyên đọc lời thề rằng: "Làm tôi tận trung, làm quan trong sạch, ai trái thề này, thần minh giết chết". Đọc xong, tể tướng sai đóng cửa điểm danh, người vắng mặt phải phạt 5 quan tiền.

Bính Ngọ (1246) Tháng 3, xét duyệt các quan văn, võ, trong ngoài. Bấy giờ quốc gia vô sự, nhân dân yên vui, người làm quan giữ mãi một chức. Người ở quán, cách 10 năm mới được xuất thân, người ở sảnh, cục 15 năm mới được xuất thân, chức tể tướng thì chọn người hiền năng trong tôn thất, có đạo đức, tài nghệ, thông hiểu thi thư thì cho làm.

Trần Thái Tông có lần muốn cho người anh của Thủ Độ là An Quốc làm tể tướng. Thủ Độ tâu:
"An Quốc là anh thần, nếu cho là giỏi hơn thần thì thần xin trí sĩ, nếu cho thần giỏi hơn An Quốc thì không thể cử An Quốc. Nếu anh em đều làm tể tướng cả thì việc triều đình sẽ ra làm sao?"

Vua bèn thôi. Thủ Độ tuy làm tể tướng, nhưng mọi việc không việc gì không để ý.

Quang Khải có học thức, hiểu tiếng nói của các phiên. Trước kia, Thánh Tông thân đi đánh giặc, Quang Khải theo hầu, ghế tể tướng bỏ không, vừa lúc có sứ phương Bắc đến. Thái Tông gọi Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn tới bảo: "Thượng tướng đi theo hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư đồ để tiếp sứ phương Bắc"

Quốc Tuấn trả lời: "Việc tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần làm Tư đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan gia (vua) đi đánh giặc xa, Quang Khải theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và Quang Khải. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn".

Đến khi Thánh Tông trở về, việc ấy lại bỏ đấy, vì hai người vốn không ưa nhau. Một hôm, Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp tới, Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Lại Quang Khải vốn sợ tắm gội, Quốc Tuấn thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Quang Khải:

"Mình mẩy cáo bẩn, xin tắm giùm", rồi cởi áo Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông và nói: "Hôm nay được tắm cho Thượng tướng (Tể tướng)". Quang Khải cũng nói: "Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho". Từ đó, tình nghĩa qua lại giữa hai người càng thêm mặn mà. Bản thân làm tướng văn, tướng võ, giúp rập nhà vua, hai ông đứng hàng đầu.

Ất Mão (1315) Bấy giờ Trần Khắc Chung làm Hành khiển. Quan ngự sử dâng sớ nói: "Chức vụ tể tướng, trước hết phải điều hoà âm dương. Nay Khắc Chung ở ngôi tể tướng, không biết phối hợp đất trời cho khí tiết điều hòa, để đến nỗi mưa nắng trái thời, thế là làm quan không được công trạng gì". Khắc Chung nói: "Tôi lạm giữ chức tể tướng, chỉ biết có sức làm những việc mà chức vụ phải làm, còn như hạn hán thì hỏi ở Long Vương. Khắc Chung đâu phải là Long Vương mà đổ tội được?".

Bính Dần (1326) Mùa thu, tháng 7, xét duyệt các quan văn võ. Buổi quốc sơ, theo quy chế cũ của nhà Lý, hàm Hành khiển (tương đương với chức Tể tướng) có thêm các chữ Trung thư môn hạ bình chương sự. Từ khi thượng tướng Quang Khải ở ngôi tể tướng, chê chức hành khiển và chức tể tướng ngang hàng nhau, mới tâu xin đổi thành Trung thư môn hạ công sự để cho có phân biệt. Đến đây, vua cho Khắc Chung thăng chức Thiếu bảo, nhưng vẫn làm việc hành khiển. Để ưu đãi, nên đặc cách thêm các chữ Trung thư môn hạ bình chương sự, là theo quy chế cũ”

Friday, August 29, 2014

Nam Phương Hoàng Hậu


Trong gần sáu mươi năm qua, kể từ khi Triều Nguyễn chấm dứt vào năm 1945 đến nay, có rất nhiều người viết về cựu Hoàng Bảo Đại, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn. Nhưng rất ít người nhắc đến bà Hoàng hậu cuối cùng, tức Nam Phương hoàng hậu. Có chăng thì cũng chỉ nhắc đến một vài chi tiết viết chung trong tài liệu nói về vua Bảo Đại. Hoặc nói cho đúng thì chưa có ai viết một tài liệu riêng về Hoàng hậu Nam Phương. Do đó nên cũng rất ít người biết đến một bà Hoàng hậu mà trong thời gian giữ ngôi vị mẫu nghi thiên hạ đã có nhiều đóng góp cho Hoàng tộc Nguyễn Phước và cho xã hội lúc bấy giờ.



Để tưởng nhớ đến một người đàn bà tài sắc, đức hạnh và mẫu mực, đã từng là đệ nhất phu nhân của nước Việt Nam suốt mười một năm, tôi xin ghi lại đôi điều về Nam Phương hoàng hậu mà tôi đã tham khảo theo tài liệu của người bí thư của bà, ông Nguyễn Tiến Lãng, con rể của cố học giả Phạm Quỳnh và một số tài liệu khác thu thập trong cuốn hồi ký của cựu hoàng Bảo Đại và của hai sử gia Pháp là Jean Renaud và Daniel Grandclément như dưới đây: 
Nam Phương Hoàng Hậu, khuê danh Nguyễn Hữu Thị Lan hay là Marie Thérèse, sinh năm 1914 tại Gò Công Nam phần, con của đại điền chủ Nguyễn Hữu Hào và là cháu ngoại của ông Lê Phát Đạt, tức huyện Sỹ, một trong những người giàu có nhất miền Nam, có thể sánh ngang hàng với gia đình Bạch công tử ở Bặc Liêu. Ông huyện Sỹ là người đã bỏ tiền ra xây cất ngôi thánh đường nguy nga ở cuối đường Võ Tánh Sài Gòn thường được gọi là nhà thờ huyện Sỹ mà đến nay vẫn còn tồn tại. 
Năm 1926, Nguyễn Hữu Thị Lan, 12 tuổi, được gia đình cho sang Pháp tòng học tại trường Couvent des Oiseaux, một trường nữ danh tiếng thuộc loại nhà giàu ở Paris do các nữ tu điều hành. Sau khi thi đậu Tú tài vào năm 1932, cô gái miền Nam theo chuyến tàu của hãng Messagerie Maritime trở về nước. Tình cờ trên chiếc tàu nầy có ông vua Việt Nam hồi loan sau khi hoàn tất việc học, đó là vua Bảo Đại mà hồi đó giới sinh viên ở Pháp thường gọi một cách thân mật là Prince Vĩnh Thụy. 
Tuy cùng trên một chiếc tàu bồng bềnh giửa đại dương một thời gian khá lâu nhưng Nguyễn Hữu Thị Lan chưa có cơ hội làm quen với vị Vua trẻ tuổi. Mãi cho đến gần một năm sau, nhân dịp vua Bảo Đại nghỉ mát tại Đà Lạt và do sự sắp đặt của Toàn quyền Đông Dương, viên Đốc Lý (tức Thị Trưởng sau nầy) thành phố Đà Lạt tổ chức một buổi dạ tiệc tại khách sạn Palace (sau gọi làkhách sạn Langbian) để tìm cách cho hai người gặp nhau. Tối hôm đó, trong chiếc áo lụa màu thiên thanh, Nguyễn Hữu Thị Lan đã xuất hiện trước Hoàng đế Bảo Đại để rồi chiếm gọn trái tim của một người có địa vị cao nhất nước. 
Tưởng cũng nên nói thêm là trước đây có nhiều nguồn tin nói rằng vua Bảo Đại đã gặp Marie Thérèse trên chuyến tàu thủy từ Pháp về Việt Nam, nhưng căn cứ vào hồi ký của vua Bảo Đại và tiết lộ của Hoàng hậu Nam Phương được chúng tôi trích dẫn dưới đây thì hai người đã gặp nhau trong một hoàn cảnh khác. 
Nhờ tòng học ở một trường thuộc nhà Dòng, được các nữ tu chỉ dạy các lễ nghi Tây phương đối với Vua Chúa nên tối hôm đó, lúc vừa diện kiến vua Bảo Đại, Nguyễn Hữu Thị Lan đã quỳ một gối và cúi đầu sát mặt đất để tỏ lòng tôn kính nhà Vua. Lẽ tất nhiên, một vị vua trẻ tuổi và hào hoa như vua Bảo Đại thì làm sao ông có thể không xiêu lòng trước sắc đẹp mỹ miều của Nguyễn Hữu Thị Lan. Và chuyện sẽ đến đã đến: đám cưới của vị thiếu quân hào hoa với một nữ lưu tràn trề hương sắc miền Nam đã diễn ra tại Huế ngày 20-3-1934. Ngay ngày hôm đó Nguyễn Hửu Thị Lan được tấn phong làm Hoàng hậu với danh hiệu Nam Phương. Sự kiện Nguyễn Hữu Thị Lan được tấn phong Hoàng hậu ngay sau khi cưới là một biệt lệ đối với các bà vợ Vua thuộc triều Nguyễn. Vì mười hai đời vua Nguyễn trước kia, các bà vợ Vua chỉ được phong tước Vương phi, đến khi chết mới được truy phong Hoàng hậu.
Nhắc đến cuộc nhân duyên với Hoàng hậu Nam Phương, cựu hoàng Bảo Đại đã ghi lại trong cuốn CON RỒNG VIỆT NAM :
"Sau lần hội ngộ đầu tiên ấy, thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp nhau để trao đổi tâm tình. Marie Thérèse thường nhắc đến những kỷ niệm ở trường Couvent des Oiseaux một cách thích thú. Cũng như tôi, Marie Thérèse rất thích thể thao và âm nhạc. Cô ta có vẻ đẹp dịu dàng của người miền Nam pha một chút Tây phương. Do vậy mà tôi đã chọn từ kép Nam Phương để đặt danh hiệu cho nàng. Các vị Tiên Đế của tôi cũng thường hướng về người đàn bà miền Nam. Nếu tôi nhớ không sai thì trước Hoàng hậu Nam Phương, có đến bảy phụ nữ miền Nam đã từng là chủ nhân của Hoàng thành Huế. Khi chọn phụ nữ miền Nam làm vợ, hình như đức Tiên Đế và tôi đều nghĩ rằng trước kia đức Thế Tổ Cao Hoàng (tức vua Gia Long) đã được nhân dân miền Nam yểm trợ trong việc khôi phục giang sơn. Chính đó là sự ràng buộc tình cảm giữa Hoàng triều Huế với người dân miền Nam".
Về phần Hoàng hậu Nam Phương, bà đã nhắc lại "cái thuở ban đầu lưu luyến ấy" như sau:
"Hôm đó ông Darle, Đốc Lý thành phố Đà Lạt gởi giấy mời cậu Lê Phát An tôi (Lê Phát An là anh ruột bà Nguyễn Hữu Hào) và tôi đến dự dạ tiệc ở Hotel Palace. Tôi không muốn đi nhưng cậu An tôi năn nỉ và hứa với tôi là chỉ đến tham dự một chút và vái chào nhà Vua xong là về nên tôi phải đi một cách miễn cưỡng và tôi cũng chỉ trang điểm sơ sài thôi. Chúng tôi đến trễ nên buổi tiệc đã bắt đầu từ lâu. Cậu tôi kéo ghế định ngồi ngoài hiên thì ông Darle trông thấy, ông ta chạy đến chào chúng tôi rồi nắm tay cậu tôi kéo chúng tôi vô nhà. Vừa đi ông vừa nói: "Ông và cô phải đến bái yết Hoàng thượng mới được". Khi cánh cửa phòng khách vừa mở, tôi thấy vua Bảo Đại ngồi trên chiếc ghế bành chính giữa nhà. Ông Darle bước tới bên cạnh Vua rồi nghiêng mình cúi chào và kính cẩn nói:
-Votre Majesté, Monsieur Lê Phát An et sa nièce, Mademoiselle Marie Thérèse. (Tâu Hoàng thượng, đây là ông Lê Phát An và người cháu gái, cô Marie Thérèse)
Nhờ các nữ tu ở trường Couvent des Oiseaux từng chỉ dạy nên tôi biết phải làm gì để tỏ lòng tôn kính đối với bậc Quân Vương, vì vậy tôi đã không ngần ngại đến trước mặt Hoàng Đế, qùy một gối và cúi đầu sát nền nhà cho đến khi thấy bàn tay cậu tôi kéo tôi dậy tôi mới đứng lên. Vua gật đầu chào tôi đúng lúc tiếng nhạc vừa trổi theo nhịp điệu Tango, Ngài ngỏ lời mời và dìu tôi ra sàn nhảy rồi chúng tôi bắt đầu nói chuyện.
Về sau, khi đã trở thành vợ chồng, Ngài mới cho tôi biết hôm đó Ngài rất chú ý cách phục sức đơn sơ của tôi. Tôi nghĩ rằng tôi được nhà Vua lưu ý một phần do trong suốt buổi dạ tiệc chỉ có tôi là người đàn bà Việt Nam duy nhất nói tiếng Pháp và theo đúng cung cách lễ nghi Âu tây đối với Ngài".
Sau lễ cưới, vua Bảo Đại cùng hoàng hậu Nam Phương dọn về ở tại điện Kiến Trung thuộc khu vực cấm thành. Điện nầy xây cất từ thời vua Khải Định nhưng được sửa chữa và tân trang các tiện nghi Tây phương vào đầu triều vua Bảo Đại.



Tại điện Kiến Trung, Hoàng hậu Nam Phương đã lần lượt hạ sanh 5 người con gồm có:
-Thái tử Bảo Long, sinh ngày 4-1-1936
-Công chúa Phương Mai, sinh ngày 1-8-1937
-Công chúa Phương Liên, sinh ngày 3-11-1938
-Công chúa Phương Dung, sinh ngày 5-2-1942
-Hoàng tử Bảo Thắng, sinh ngày 9-12-1943
Thường ngày, ngoài việc chăm sóc dạy dỗ con cái, thỉnh thoảng hoàng hậu Nam Phương phải cùng các quan ở Bộ Lễ bàn thảo các lễ lạc trong cung đình, lo việc cúng giỗ các Tiên đế và đi vấn an sức khỏe các bà Tiên cung và Hoàng thái hậu Từ Cung, tức mẹ vua Bảo Đại. Tóm lại, bà rất chu toàn bổn phận làm dâu.
Ngoài việc quản trị nội cung như đã nói trên đây, hoàng hậu Nam Phương còn tham gia các việc xã hội và từ thiện. Như đi thăm trường nữ Trung học Đồng Khánh ở đường Jules Ferry (tức Lê Lợi sau nầy), bà thường tiếp xúc với các Giáo sư, nhắc nhở họ cố gắng làm tròn thiên chức của một nhà mô phạm; đi thăm Nữ Công Học Hội ở đường Khải Định (tức đường Nguyển Huệ ngày nay). Theo lời nử sĩ Đạm Phương sau nầy kể lại thì có lần Hoàng hậu Nam Phương bảo bà làm đơn xin phép Bộ Giáo Dục đem môn nữ công gia chánh vào học đường. Hàng năm bà đều tham dự các buổi phát giải thưởng cho các học sinh giỏi tổ chức tại trung tâm Accueil gần nhà dòng Cứu Thế.
Ngày nay, không ai còn lạ lùng khi trông thấy quý vị đệ nhất phu nhân xuất hiện nơi công cọng để giúp chồng trong việc ngoại giao, nhưng cách đây sáu mươi năm, Hoàng hậu Nam Phương giúp vua Bảo Đại trong việc tiếp kiến các nhà ngoại giao là một điều quý hiếm. Vào thời đó, nhiều người ở kinh đô Huế đều biết trong những lần vua Bảo Đại tiếp đón các quốc khách như Thống Chế Tưởng Giới Thạch của Đài Loan, Quốc Vương Soupha Vangvong Lào quốc hoặc Quốc vương Sihanouk của Cao Mên v.v đều có sự hiện diện của hoàng hậu Nam Phương. Lần vua Bảo Đại tự mình lái xe hơi đi thăm Nam Vang cũng có mặt Hoàng hậu tháp tùng.
Chi tiết đáng kể nhất là việc Hoàng hậu Nam Phương đã đem lại hòa khí giữa các chức sắc đạo Thiên Chúa ở Việt Nam với Hoàng tộc nhà Nguyễn. Vì như chúng ta đã biết, đạo Thiên Chúa với các vị vua triều Nguyễn vốn có những căng thẳng lịch sử thì Nam Phương hoàng hậu, như một làn gió mát, đã thoa dịu sự căng thẳng lịch sử tưởng chừng như không bao giờ thay đổi. 
Nhân đây, tưởng cũng nên nhắc lại một hành động chứng tỏ lòng thiết tha với quê hương đất nước của Hoàng hậu Nam Phương mà chúng tôi mới tìm thấy trong tài liệu của sử gia Pháp Jean Renaud do nhà xuất bản Guy Boussac ấn hành năm 1949:
Số là sau khi quân Pháp dựa vào thế lực của quân Anh quốc để gây hấn ở miền Nam với ý đồ tái chiếm thuộc địa Việt Nam. (Xin lưu ý bạn đọc lúc cuộc chiến khởi đầu tại Nam phần là thuần túy giửa thực dân Pháp một bên và một bên là người Việt Nam chống lại sự đô hộ của người Pháp, không giống thực chất cuộc chiến Quốc Cộng sau nầy). Lúc đó vua Bảo Đại đã từ chức, bà Nam Phương đang ở tại An Định cung bên bờ sông An Cựu. Đau lòng trước thảm cảnh mà đồng bào miền Nam, quê hương của bà đang trực tiếp gánh chịu, cựu Hoàng hậu Nam Phương đã gởi một Thông điệp (Message) cho bạn bè ở Au châu yêu cầu họ lên tiếng tố cáo hành động xâm lăng của thực dân Pháp với lời lẽ như sau:
"Kể từ tháng 3 năm 1945, nước Việt Nam đã thoát khỏi sự đô hộ của người Pháp nhưng vì lòng tham của một thiểu số thực dân Pháp với sự tiếp tay của quân đội Hoàng gia Anh nên hiện nay máu của nhân dân Việt Nam lại tiếp tục chảy trên mãnh đất vốn đã có quá nhiều đau khổ. Hành động nầy của thực dân Pháp là trái với chủ trương của Đồng Minh mà nước Pháp lại là một thành viên. Vậy tôi tha thiết yêu cầu những ai đã từng đau khổ vì chiến tranh hãy bày tỏ thái độ và hành động để giúp chúng tôi chấm dứt chiến tranh đang ngày đêm tàn phá đất nước tôi.
Thay mặt cho hàng chục triệu phụ nữ Việt Nam, tôi thỉnh cầu tất cả bạn bè của tôi và bạn bè của nước Việt Nam hãy bênh vực cho tự do. Xin các chính phủ của khối tự do sớm can thiệp để kiến tạo một nền hòa bình công minh và chân chính và xin quý vị nhận nơi đây lòng biết ơn sâu xa của tất cả đồng bào của chúng tôi". 
Ký tên: 
Bà Vĩnh Thụy 
(tức Hoàng hậu Nam Phương.)
Trong một dịp tiếp xúc riêng tư, một người Việt Nam trong ngành ngoại giao trước năm 1975 hiện ở Pháp nói với chúng tôi rằng bức thông điệp trên đây đã được bà Phương gởi đến Tổng Thống Truman của Hiệp Chủng Quốc vào đầu năm 1946 để nhờ can thiệp. Tuy nhiên, đối với một tin tức có tính cách lịch sử nhưng vì không được tận mắt nhìn thấy trên giấy trắng mực đen nên tôi xin ghi lại đây với tất cả sự dè dặt thường lệ.
Bà Hoàng hậu cuối cùng của triều Nguyễn đã trút hơi thở cuối cùng tại làng Chabrignac, một vùng quê thuộc miền Bắc nước Pháp theo như lời thuật lại sau đây:
Ngày 14 tháng 9 năm 1963, vào khoảng 5 giờ chiều, cựu hoàng hậu Nam Phương cảm thấy mệt bèn cho người nhà đi mời Bác sỹ đến thăm mạch. Sau khi chẩn khám, Bác sĩ cho biết bà bị viêm họng nhẹ, chỉ uống thuốc vài hôm là khỏi. Nhưng không dè, Bác sĩ vừa rời khỏi nhà chừng vài tiếng đồng hồ thì bà cảm thấy khó thở. Ngươi hầu bà bèn nhờ một người Pháp hàng xóm đi mời một Bác sĩ khác, nhưng người Bác sĩ thứ hai chưa đến kịp thì cựu Hoàng hậu Nam Phương đã êm ái lìa đời ngay trong đêm đó khi vừa tròn 49 tuổi. Ngoài hai người giúp việc trong nhà, không có một người ruột thịt nào có mặt bên cạnh bà trong giờ phút lâm chung, vì các con bà đều ở tận Paris để làm việc và đi học.
Đám tang của bà Hoàng hậu Viêt Nam lưu vong được tổ chức một cách sơ sài lặng lẽ như những năm tháng cuối đời của bà. Hôm đưa đám, ngoài hai Hoàng tử và ba Công chúa đi bên cạnh quan tài của mẹ không có một người bà con nào khác. Về phía quan chức Pháp thì chỉ có ông quan đầu Tỉnh Brive la Gaillarde và ông Xã Trưởng Chabrignac. 
Trong suốt thời gian tang lễ cựu Hoàng Bảo Đại cũng không có mặt mà sau nầy, kẻ viết bài nầy trong thời gian ở Pháp được nghe kể lại thì khi hay tin mẹ chết, công chúa Phương Liên tức tốc đánh điện tín báo tin cho cựu Hoàng nhưng gặp lúc cựu Hoàng vắng nhà vì bận đi chơi xa với bà Mộng Điệp, vì vậy mà cựu Hoàng Bảo Đại không hay biết gì nên đã vắng mặt trong ngày đám tang của một người mà có thời đã cùng ông đầu ấp tay gối. Sự kiện đó đã gây sự hiểu lầm khiến về sau các Hoàng tử và Công chúa đã ôm lòng oán hận người cha mà họ nghĩ là một người chồng không trọn nghĩa thủy chung!
Trong lần trở lại Pháp vào tháng 4 năm 1999, do đề nghị của một người bạn thường giao thiệp với Hoàng tử Bảo Long, từ Paris tôi theo người bạn đi về làng Chabrignac, cách tỉnh Brive la Gaillarde ba mươi cây số để viếng mộ Hoàng Hậu Nam Phương. 
Gió chiều nghĩa trang lồng lộng thổi, trước mắt tôi là một ngôi mộ đơn sơ với tấm bia đá hai mặt ghi hai hàng chữ bằng hai thứ tiếng khác nhau, mặt trước viết chữ Hán, mặt sau viết chữ Pháp như dưới đây:
Bia chữ Hán: ĐẠI NAM NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU CHI MỘ, có nghĩa là:
"Mộ phần của bà Hoàng hậu nước Đại Nam là Nam Phương".
Bia chữ Pháp: ICI REPOSE L'IMPÉRATRICE D'ANNAM NÉE MARIE THÉRÈSE NGUYEN HUU THI LAN, có nghĩa là : "Đây là nơi an nghỉ của bà Hoàng hậu Việt Nam tên là Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan".
Tôi lặng nhìn ngôi mộ với những cành hoa đã úa vàng lăn lóc đó đây, lòng bồi hồi nhớ lại hơn năm mươi năm trước, từ nhà tôi đi dọc theo bờ sông An Cựu, mỗi khi đi ngang cung An Định tôi ngẩng nhìn lên bao-lơn, nhiều lần tôi bắt gặp Hoàng hậu Nam phương đang tựa lưng vào tường, mắt đăm đăm nhìn đám lục bình trôi lờ lững giữa giòng sông. Tự nhiên lòng tôi se lại, thương tiếc bà Hoàng hậu của kinh đô Huế thuở nào và buồn cho chính thân tôi, một thời thơ ấu nay đã đi qua! Thuở ấy, có một đôi lần tôi đứng xếp hàng trong hàng ngủ học sinh Tiểu học để đón chào Hoàng hậu. Chúng tôi, với nét mặt rạng rở tay cầm cờ vàng phất lia lịa mỗi khi Hoàng hậu xuất hiện và hướng mắt về phía đám nhóc con Tiểu học. Than ôi! Ngày ấy nay còn đâu?
Tôi kính dâng lên hương linh Hoàng hậu Nam Phương những hàng chữ thô thiển nầy và xin Hoàng hậu chứng giám cho lòng kính trọng vô vàn của người viết khi ghi lại những chi tiết về cuộc đời trong sáng của bà.

Tôn Thất An Cựu

Vị Thượng thư ba bộ

Trong lịch sử Việt Nam, hiếm có ai từng giữ chức Thượng thư ở ba bộ như Tiến sĩ Nguyễn Quang Nhuận (1678 - 1758). ở cương vị nào, ông cũng đều tận tâm, tận lực làm tốt công việc, được sử sách khen ngợi. 
Nguyễn Quang Nhuận (1678 - 1758) quê ở xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Khoa thi năm Quý Mùi, niên hiệu Chính Hòa 24 (1703), đời vua Lê Hy Tông, ông đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. 
Thời Lê Hy Tông được đánh giá là thời thanh bình, kỷ cương được chấn hưng, phép tắc được tôn trọng. Nhà vua được Tây vương Trịnh Tạc phò lên ngôi cao lúc mới 13 tuổi. Nhờ vào Chúa và cơ nghiệp có sẵn, nhà vua được an nhàn ngồi trên ngôi báu. 
Năm 1723, ông được cử làm Phó sứ sang nhà Thanh, ông đã làm tròn trách phận. Rồi ông được thăng chức Tham tụng, Hộ bộ Thượng thư, tước Mỹ Xuyên hầu. Là một vị quan cương trực, tài năng, ông được giao chức Phó Đô ngự sử, chịu trách nhiệm thanh tra những công vụ, những sự cố nơi triều đình cũng như nơi thôn hương vùng biên ải. 
Gánh trên vai chức Phó Đô ngự sử, ông chịu đi, chịu nghe, việc gì cũng tìm hiểu đến ngọn ngành, phân tích phải trái, rút ra những kết luận xác đáng. Đã thanh tra là phải công tâm, muốn thế, lòng phải sáng, trí phải đầy, tài phải đủ, không chịu một sức ép nào, không "hạ mình" trước một cám dỗ nào. Với chức này, Tiến sĩ Nguyễn Quang Nhuận đã bảo đảm công vụ rất xuất sắc, được (Triệu Quận công) thăng Tả thị lang bộ Hình, tước Triệu Quận công. Sau đó, ông được chuyển sang Tả thị lang bộ Binh. 
Bước đường danh vọng của ông tiến sĩ họ Nguyễn này không dừng lại ở đây. Năm Quý Sửu (1733), ông được thăng Thượng thư bộ Công, năm 1734 lại chuyển sang làm Thượng thư bộ Lễ. Rồi ông lại được thăng chức Tham tụng, hàm Thiếu phó. Năm 1741, ông kiêm chức Đốc đồng Kinh Bắc. 
Vùng Kinh Bắc xưa còn nhiều rừng rậm. Tư liệu xưa cho hay: thời vua Lê - chúa Trịnh ở đây có bọn giặc cướp khiến cho mọi người lo lắng, sợ hãi. 
Giữ chức Đốc đồng, ông đã cùng các đồng sự xuống đến tận cơ sở tìm hiểu tình hình để rồi định ra biện pháp hữu hiệu làm cho nơi địa bàn "nóng" này trở lại không khí thanh bình. Triều đình đã xác nhận các công lớn của ông trong việc làm bình ổn đời sống của chúng dân nơi này. 
Năm 1742, ông được về trí sĩ. Năm này ông đã vào tuổi 65. Nhưng nghỉ chưa được lâu, chúa Trịnh Doanh lại triệu ông ra gánh vác công vụ mới. Đã vào tuổi "cổ lai hy" rồi, nhưng ông còn minh mẫn gánh vác việc quốc gia. Cái đức rất sáng của ông: thanh liêm, chính trực, cương nghị, khoan dung, khiến cả triều đình mến phục, kính nể. Rồi ông được thăng chức Đại tư không. 
Đời ông, từ khi đỗ tiến sĩ năm 1703 cho đến khi về trí sĩ lần thứ hai và tạ thế vào năm 1758, thọ 87 tuổi, ông đã phục vụ cho triều Lê - Trịnh khoảng 50 năm có lẻ. Có lẽ, có ít vị quan nào giữ đến ba chức Thượng thư, từng là Đô ngự sử và Đốc trấn, trải qua chức tham tụng và Đại Tư Không tước Hầu rồi lên tước Công lại phục vụ những năm, sáu đời vua như ông. 
Một đời làm quan, nêu gương sáng cho nhiều đời sau, Tiến sĩ Nguyễn Quang Nhuận là một vị Thượng thư, một vị Đô ngự sử đáng kính phục vậy.

Tạ Hữu

Ỷ Lan phu nhân

Bấy giờ, Lý Thánh Tông đã 40 tuổi mà chưa có con trai nối dõi, Nhà vua và triều đình rất buồn phiền thường đi cầu tự ở các đền chùa trong nước. 
Một hôm, trăm quan rước xe vua Lý Thánh Tông đi cầu tự ở chùa Dâu (Thuận Thành, Hà Bắc). Nhân dân các làng ven đường, gái trai già trẻ đều đổ ra xem. Riêng cô gái nghèo làng Sủi thì lại khác thường. Lòng cô dửng dưng trước đám rước vua. Xa xa, nghe tiếng chiêng trống khua vang, tiếng quân lính hò thét, tiếng nhân dân hò reo, cô vẫn không ngừng tay hái lá, vẫn miệt mài trong chốn nương dâu. Tới khi xe vua đến gần chị em bạn bỏ chạy ra đường xem đám rước, cô mới tạm ngừng tay trong giây lái. Nhưng cô cũng không rời nương dâu, chỉ đứng tựa gốc cây, mắt lơ đãng nhìn xa …. Thấy bóng cô thôn nữ một mình thấp thoáng trong ngàn dâu xanh ngắt, Lý Thánh Tông lấy làm lạ, sai quân lính đòi cô đến trước xe hỏi chuyện. Thôn nữ bước tới xe vua, quì tâu : 
- Thiếp là con nhà nghèo hèn, phải làm việc đầu tắt mặt tối, phụng dưỡng mẹ cha, không dám mong đi xem rước và nhìn mặt rồng. 
Thấy cô gái xinh đẹp, ăn nói dịu dàng, ông vua hiếm con liền truyền đưa cô về kinh (Thăng Long). 
Vua sai xây một cung riêng cho cô ở (tương truyền sau này là chùa Kim Cổ, nay là số nhà 73 - phố Ðường Thành - Hà Nội), đặt là cung Ỷ Lan và gọi cô là Ỷ Lan Cung phi. Cái tên Ỷ Lan (dựa gốc Lan) đặt ra để ghi lại sự tích nhà vua gặp người đẹp đứng tựa gốc cây ngày nào bên quê Bắc. 
Ít lâu sau, Ỷ Lan sinh con trai (sau là Lý Nhân Tông). Lý Thánh Tông càng yêu quí nàng gấp bội. Nàng được tôn làm Ỷ Lan nguyên phi (đứng đầu các phi, sau hoàng hậu) ; con trai nàng được phong thái tử. 
Năm 1069, Lý Thánh Tông cùng Lý Thường Kiệt cất quân đi đánh giặc ở phương xa. Ỷ Lan được thay vua cầm quyền trị nước. Sử cũ chép rằng : bà nguyên phi Ỷ Lan trị nước rất giỏi, khiến dân tâm hòa hiệp, cõi nước thanh bình. Dân gian sùng đạo Phật, tôn bà là “Quan Âm nữ” (Con gái đức Bồ Tát Quan Âm) 
Lý Thánh Tông đánh giặc lâu ngày không thắng quay trở về. Ðến châu Cư Liên (Tiên Lữ, Hải Hưng), vua hỏi thăm nhân dân, thấy nhân dân hết lời ca ngợi tài trị nước của Ỷ Lan. Vua thở than : “Kẻ kia là đàn bà còn giỏi như vậy. Ta là đàn ông, lại tầm thường thế hay sao?” . Lại quay đi đánh giặc, và lần này thắng to. 
Hai lần chống xâm lược Tống (1075-1077), vua Lý Nhân Tông còn bé (lên 10 tuổi). Lý Thường Kiệt điều binh khiển tướng ngoài chiến trường. Bà Ỷ Lan cùng thái phó Lý Ðạo Thành dốc sức lo việc triều đình, việc hậu phương. 
Ỷ Lan rất hiểu nổi đau khổ của nông dân. Khi Lý Thánh Tông mất, con bà lên ngôi, bà đã làm được một số việc có ích cho dân. Ở nông thôn bấy giờ có nhiều phụ nữ vì nghèo mà phải bán mình (hoặc bị mẹ cha buộc lòng phải đem bán), đem thân thế nợ, không thể lấy chồng được, bà Ỷ Lan đã lấy tiền bạc trong kho nhà nước chuộc những người ấy và đứng ra dựng vợ gả chồng cho họ. 
Ỷ Lan rất hiểu rằng đối với người dân cày “con trâu là đầu cơ nghiệp”. Cho nên bà đã nhiều lần nhắc nhở vua phạt tội nặng những kẻ ăn trộm trâu và giết trâu. Tháng hai năm Ðinh Dậu (1117), năm tháng trước khi bà mất, bà còn nhắc nhở vua một lần nữa : “Gần đây, người kinh thành và làng ấp có kẻ trốn đi chuyên nghề trộm trâu. Nông dân cùng quẫn. Mấy nhà phải cày chung một trâu. Trước đây, ta đã từng mách việc ấy và nhà nước đã ra lệnh cấm. Nhưng nay việc giết trâu lại có nhiều hơn trước”. Lời khuyên vua trên đây chứng tỏ tuy Ỷ Lan sống trong cung điện triều Lý, bà vẫn quan tâm theo dõi và lo lắng đến đời sống nông dân. Vâng lời mẹ, Lý Nhân Tông hạ lệnh lùng bắt và trừng trị bọn chuyên nghề ăn trộm trâu. Không những thế việc giết trâu ăn thịt những ngày giỗ đám cũng bị hạn chế. Chính quyền Lý qui định ở Thăng Long cũng như tại các địa phương trong cả nước cứ ba nhà lập một “bảo” kiểm soát lẫn nhau và cùng liên đới chịu trách nhiệm về tội lạm giết trâu bò. 
Giỏi giang chính trị, chăm sóc kinh tế và đời sống nhân dân, Ỷ Lan còn học hỏi rộng, hiểu biết nhiều. Năm 1096, bà bày cỗ chay ở chùa Khai quốc (tức sau này là chùa Trấn Quốc ở Thăng Long), thết các sư. Tiệc xong bà ngồi kê cứu đạo Phật với các vị sư già học rộng. Bà hỏi về nguồn gốc đạo Phật trên thế giới và ở nước ta. Bà có óc phán đoán, đòi hỏi các sư “nói có sách, mách có chứng”. Chính nhờ câu chuyện giữa bà và các vị sư thời Lý mà đến nay ta còn biết gốc tích sự truyền đạo Phật vào nước ta. 
Nhiều ngôi chùa tháp có qui mô to lớn bề thế với những dáng hình cấu trúc phong phú, bền vững, có bố cục đăng đối, có trang trí đẹp mắt đã được xây dựng lên trong “thời đại Ỷ Lan” này : chùa Giạm (Quế Võ, Hà Bắc) 1086, chùa Một mái ở động Hoàng Xá (Quốc Oai, Hà Tây)1099, chùa Phật Tích (Tiên Sơn, Hà Bắc) 1100, chùa Bảo Ân (Ðông Sơn, Thanh Hóa) 1100, tháp Chương Sơn (Ý Yên, Nam Hà) 1108, chùa Bà Tấm hay còn gọi là Linh nhân từ phúc, tức tên hiệu của Ỷ Lan (Gia Lâm, Hà Nội) 1105, vẫn hay đó căn bản là do công sức và tài khéo của nhân dân, song không khỏi có sự cổ vũ và việc giúp công giúp của của Ỷ Lan, của con bà là Lý Nhân Tông, của Lý Thường Kiệt. Sử chép rằng riêng Hoàng thái hậu Ỷ Lan đã xây dựng trước sau hơn 100 ngôi chùa mà chỉ có một số ít ỏi di tích như vừa kể trên là ngày nay vẫn thấy. 
Mùa thu, tháng bảy, năm Ðinh Dậu (08-1117), Ỷ Lan qua đời. Thi hài của bà được hỏa táng theo tục lệ nhà Phật. Cho đến nay, dân gian xứ Bắc còn truyền tụng nhiều câu chuyện về Ỷ Lan mà người ta thường gọi là “Bà Tấm của xứ Bắc”
Nghìn xưa văn hiến

Thursday, July 31, 2014

Nguồn cội họ Đặng


Dòng họ Đặng Việt Nam không phải là chỉ có một dòng họ Đặng gọi chung mà chia ra 3 dòng họ Đặng chính là Đặng Văn, họ Đặng Viết và Đặng Đình(Đặng Trần). Ngày xưa dòng họ Đặng Đình( Đặng Trần) được sinh ra năm 1511, cụ Trần Lâm đổi sang họ Đặng nên gọi là Đặng Trần Lâm, là thủy tổ của dòng họ Đặng Đình, còn nguyên nhân vì sao mà cụ thủy tổ đổi sang họ Đặng thì tôi xin phép không đề cập đến. Cụ là một người mang họ Trần, và cụ đã đổi sang là họ Đặng sau đó về sinh sống ở làng Lương Xá. Hiện nay ở làng Lương Xá, xã Lam Điền, huyện Chương, Mỹ Hà Nội vẫn có nhà thờ tổ họ Đặng ở đó, nhưng là nhà thờ họ Đặng Đình( Đặng Trần) chứ không phải họ Đặng khác, giỗ tổ là vào ngày 06 - 11. Và vấn đề chính xác là dòng họ Đặng Trần không phải có cùng nguồn gốc với 2 dòng họ Đặng Văn và Đặng Viết. Dòng họ Đặng Trần có rất nhiều người được phong Hầu, phong tướng. trong sử sách ngày xưa có nhiều câu nói về dòng họ Đặng Trần như: Giàu thì Quảng Bị Bối Khê Làm quan Lương Xá, ngoại đê Đại Từ. Hay Đánh giặc họ Hàm, làm quan họ Đặng. Tiêu biểu là các danh tướng ĐẶNG TIẾN ĐÔNG thời nhà Nguyễn( Quang Trung Nguyễn Huệ), tiến sĩ ĐẶNG ĐÌNH TƯỚNG, Nghĩa Quận Công ĐẶNG HUẤN... Nếu muốn biết rõ chi tiết thì mọi người có thể tìm về làng Lương Xá, xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ, Hà Nội.
Tuy đến đầu Triều Lý, họ Đặng mới chép Gia Phả, nhưng dấu tích nguời họ Đặng để lại trong lịch sử từ rất sớm, cách đây hơn 3.700 năm, từ thời các Vua Hùng dựng nuớc. Nguời họ Đặng xa nhất đuợc lịch sử ghi công tích là vợ chồng Ngài Đặng Hoằng - Trương Thị Diệu Hòa, người Bích Động, Liêm Am, Kim Bích, tỉnh Đông, thuộc bộ Ninh Hải (nay thuộc huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng). Thời Hùng Vuơng thứ 6 - Hùng Hồng Vương (1718 TCN – 1631 TCN), Ngài và 4 nguời con trai có công cùng Thánh Gióng dẹp giặc Ân, giữ nước, được Vua phong tước Hầu Long Bảo, khi mất được sắc phong Thượng Đẳng Thần. Đó là 4 vị Thành Hoàng hiện nay còn đuợc thờ tại Đình Bích Động, Vĩnh Bảo, Kiến An, Hải Phòng. Và theo chiều dài lịch sử, đến thời Đinh Lê còn nhiều công thần danh tuớng họ Đặng có công lớn với triều đình cũng đuợc lịch sử luu danh. Nhưng thời kỳ đó, nguời họ Đặng chưa ghi chép Gia Phả nên ngày nay không có cơ sở để ghép nối đuợc các dòng với nhau.

Đặng Quốc Công là tổ tiên của bà con họ Đặng

Sách Đại Nam nhất thống chép: "Đặng Tất đỗ Thám hoa triều Trần, làm quan đến chức Hành khiển, là cháu của Lại bộ Thượng thư Đặng Bá Tĩnh, cuối đời Trần ông giữ chức Đại Tri châu ở Hóa Châu ". Dưới triều đại nhà Hồ, Đặng Tất được Hồ Quý Ly giao làm Đại tri châu Hoá Châu, nắm toàn quyền quyết định ở vùng đất này. Năm Đinh Hợi (1407), cuộc kháng chiến chống giặc Minh của nhà Hồ nhanh chóng bị thất bại, quân Chămpa nổi dậy đánh chiếm lộ Thăng Hoa (Quảng Nam) uy hiếp Hoá Châu. Cũng trong thời gian này ở phía Bắc, quân Minh đã tiến quân vào đánh Hoá Châu thống trị vùng đất này. Trước hoàn cảnh đó, Đặng Tất phải dùng kế sách “trá hàng” quân Minh để củng cố lực lượng đối phó với quân Chămpa ở phía Nam. Sau khi Đặng Tất được tướng nhà Minh là Trương Phụ giao giữ chức Đại tri châu Châu Hoá, ông cùng với quân dân Hoá Châu đã đẩy lùi được cuộc tấn công của quân Chămpa, ổn định được biên giới phía Nam và bắt đầu chăm lo xây dựng lực lượng khởi nghĩa để chống giặc Minh.
Năm Đinh Hợi (1407) quân Minh xâm chiếm được nước ta, Trần Ngỗi (con Trần Nghệ Tông) được lực lượng của Trần Triệu Cơ tôn làm minh chủ, dựng cờ khởi nghĩa và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống giặc Minh. Biết tin, Đặng Tất liền tiến đánh quân Minh đang hoành hoành ở Thuận Hoá rồi đem quân ra Nghệ An hợp với Trần Ngỗi tạo nên thanh thế lớn cho cuộc khởi nghĩa. Đặng Tất được Trần Ngỗi phong làm Quốc Công và ông đã gả con gái của mình cho Trần Ngỗi để khẳng định sự cố kết và niềm tin trong lực lượng lãnh đạo chống quân Minh, nhiều tướng lĩnh đem quân hưởng ứng cuộc khởi nghĩa, trong số tướng lĩnh đó có Nguyễn Cảnh Chân vốn là bạn thân tín và cũng là tâm phúc của Đặng Tất.
Cuối năm Mậu Tý (1408), nghĩa quân của Trần Ngỗi - Đặng Tất liên tiếp mở các cuộc tiến công giặc Minh ở Nghệ An, Quảng Bình. Nhân thế thắng, Trần Ngỗi ra lệnh cho Đặng Tất mở cuộc tấn công ra Bắc nhằm tiêu diệt giặc Minh. Khi quân kéo đến Tràng An, hào kiệt các vùng kéo đến ngày càng đông, cứ theo tài năng của từng người mà giao chức trách, lòng người phấn khởi, thế quân mạnh thêm, vì thế lực lượng của cuộc khởi nghĩa phát triển nhanh chóng. Cuối năm 1408, quân xâm lược Minh và 4 vạn viện binh do Mộc Thạch chỉ huy, tập trung quân ở bến đò Bô Cô (Nam Định) quyết chiến tiêu diệt quân ta. Tại Bô Cô, Đặng Tất đã dựng trận địa mai phục, từ giờ Ngọ đến giờ Dậu ngày 30/12/1408 nghĩa quân đã chiến đấu mưu lược, anh dũng tiêu diệt toàn bộ binh lực của giặc Minh, trong đó có cả tổng chỉ huy quân Minh là Lũ Nghị, tên thượng thư Lưu Tuấn, đánh tan 4 vạn quân giặc. Với chiến thắng Bô Cô cho thấy được tài thao lược quân sự và lòng dũng cảm của Đặng Tất.
Sau đại thắng Bô Cô, Trần Ngỗi định thừa thắng tiến lên đánh chiếm lấy Đông Đô, trái lại Đặng Tất cho rằng lực lượng ta chưa đủ mạnh để đè bẹp được quân Minh do vậy cần có thời gian để dưỡng binh và củng cố lực lượng, truy bắt bọn giặc cùng tay sai. Do bất đồng chiến pháp giữa Trần Ngỗi và Đặng Tất đã làm hỏng thời cơ chiến thắng, gây tổn thất lớn cho cuộc khởi nghĩa. Lòng ngờ vực của Trần Ngỗi trỗi dậy, lại bị bọn hoạn quan gièm pha nhân cơ hội thổi thêm vào (vì ông vốn là quan nhà Trần, sau lại làm quan nhà Hồ chống Minh rồi trá hàng quân Minh để tính mưu kế phát triển lực lượng kháng chiến chống quân Minh xâm lược) nên Trần Ngỗi đã tìm cách ám hại hai danh tướng của mình là Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Chân. Tháng 3/1409, khi thuyền Trần Ngỗi đóng ở sông Hoàng Giang, Trần Ngỗi cho gọi Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân đến để bàn việc quân. Đặng Tất bị Trần Ngỗi cho quân bóp cổ chết tại chỗ, quẳng xác xuống sông, Nguyễn Cảnh Chân chạy trốn lên bờ cũng bị đuổi theo chém chết. Cái chết oan nghiệt của Đặng Tất đã dẫn đến sự tan rã, phân hóa trong toàn bộ nghĩa quân và đẩy nước ta tiếp tục chịu gần 20 năm đô hộ của giặc Minh (1409- 1427).
Sử thần Ngô Sỹ Liên đã nhận xét về sự kiện này: “...chỉ vì vua tin lời gièm pha mà vội giết Tất thôi. Than ôi, Đặng Tất sau khi phá được giặc mạnh, trổ tài mới trong khoảng một tuần, một tháng, công việc chưa làm được một nửa mà bị chết oan, đó là cái họa sụp đổ của nhà Trần chứ đâu phải tội của Tất...Vua may thoát khỏi vòng vây hãm nguy hiểm, cầu người cứu giúp nạn nước, được cha con Đặng Tất có tài làm tướng, cha con Cảnh Chân giỏi bày mưu lược, đủ để lập được công khôi phục, dựng được nghiệp trung hưng. Với trận thắng Bô Cô, thế nước lại nổi. Thế mà nghe lời gièm pha ly gián của bọn hoạn quan, một lúc giết hại hai người bề tôi phò tá, tự mình chặt bỏ chân tay vây cánh của mình, thì làm sao làm nên việc được”.
Với những công lao, đóng góp to lớn cho đất nước, Đặng Tất được sử sách lưu danh, các triều đại ghi nhận và nhân dân tôn kính, thờ phụng.
Thi hài Đặng Tất được các con ông mang về chôn ở làng Thế Vinh, huyện Sĩ Vang, ngoại thành Hóa châu (nay là xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, Thừa Thiên - Huế). Mộ ông nằm ở ven bờ nam sông Hương, cách bến đò Sình khoảng 3 km và cách thành Hóa châu khoảng 7 km. Dân trong vùng tôn ông làm Thành Hoàng.
Năm 1428, Lê Lợi sau khi đánh xong quân Minh, ban chiếu cho hai cha con ông (cùng Đặng Dung) biển vàng tám chữ: "Tiết liệt cương trung - Trung thần hiếu tử", truy phong Đặng Tất làm Đại quốc công, Khuông quốc đại vương Thượng đẳng tôn thần; cho lập đền thờ tại quê hương Tả Thiên Lộc, cấp 200 mẫu ruộng lộc điền, giao cho huyện xã hằng năm cúng tế.
Vua Lê Thánh Tông ban chiếu tặng cha con ông hai câu đối:
Quốc sĩ vô song, song quốc sĩ
Anh hùng bất nhị, nhị anh hùng

Lịch Sử Việt Nam qua hình ảnh


Vua Hùng với những hình tượng bay ra từ trống đồng. Tay ông ôm bó lúa và rìu biểu tượng của nền văn minh lúa nước và đồ đồng sớm đã có và phát triển vào thời đại nhà nước Văn Lang.

An Dương Vương Thục Phán chém yêu tinh gà trắng xây thành Cổ Loa với sự trợ giúp của thần Kim Qui. Gà trắng có lúc là biểu tượng của Tàu. . Y phục của An Dương Vương phỏng tác theo hình ghi khắc trên trống đồng

Hai Bà Trưng cỡi voi ra trận. Mặt trời là trống đồng dân tộc. Voi trận mang hình ảnh của “voi 9 ngà” trong huyền thoại Sơn Tinh, Thủy Tinh. Y phục theo áo dài khăn đóng của Việt nam pha cùng y phục Tây nguyên.

Ngô Vương Ngô Quyền và trận đánh đi vào lịch sử trên sông Bạch Đằng. Y giáp được dựa theo một số tranh cổ và sự tưởng tượng. Bàn tay vung ra nắm đấm với ý nói: sẽ đập tan mọi cuộc xâm lược.

Đinh Tiên Hoàng Đinh Bộ Lĩnh được biết tới tài năng quân sự khi còn nhỏ tuổi đã bày trò cỡi trâu đánh trận. Tranh vẽ với ý tưởng đưa hình ảnh cỡi trâu và cờ lau gắn bó với Đinh Bộ Lĩnh

vua Lý Thái Tổ nằm mộng thấy rồng bay – dời kinh đô và đặt tên là Thăng Long.


Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đang viết bài hịch lưu truyền muôn đời: Hịch Tướng Sĩ. Phía sau là bối cảnh trận đánh oanh liệt tại sông Bạch Đằng

Vua Lê Thái Tổ Lê Lợi trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh. Có thần Kim Qui dâng Thuận Thiên Kiếm. Trong tranh có các chiếc lá với dòng chữ “Lê Lợi Vi Quân, Nguyễn Trãi Vi Thần” theo kế sách của Nguyễn Trãi

Chúa Nguyễn Hoàng (triều Nguyễn) người có công khai phá, mở rộng bờ cõi đất nước xuống phía Nam. Tranh miêu tả chúa Nguyễn cùng dân di cư xuống miền Nam. Y phục dựa theo tượng của ông tại đền thờ.

Quang Trung Nguyễn Huệ đang tiến quân đánh phá giặc Thanh vào dịp tết (có cành đào đất Bắc) Bộ trống trận danh tiếng của nghĩa quân Tây Sơn. Hình ảnh Nguyễn Huệ được vẽ theo các di ảnh còn lưu lại.

Lê Văn Duyệt – người có công mở mang đất đai nông nghiệp vùng miền Nam. Ông là người điều hành việc đào kênh Vĩnh Tế.

Hoàng Diệu trong trận tử chiến giữ thành Hà Nội. Di ảnh của ông được dùng trong tranh. Bộ y giáp của triều Nguyễn còn lưu lại tại viện bảo tàng. Cảnh Pháp đánh thành Hà Nội phỏng theo tranh vẽ của sách sử của Pháp

Phan Đình Phùng và Cao Thắng. Hình vẽ được họa theo di ảnh của Phan Đình Phùng. Cao Thắng bên cạnh, tay cầm súng trường vì ông là người đã sáng chế súng cho nghĩa quân

 Hùm Thiêng Yên Thế Hoàng Hoa Thám. Dùng di ảnh thật của ông đưa vào tranh.

 
 Bình Tây Đại Nguyên Soái Trương Định – Vẽ phỏng theo di ảnh của ông

Diễn đàn Viettoon

Lịch sử chữ viết Việt Nam

Chữ HánChữ NômChữ Viết năm 1651
Chữ Hán:

Chữ Hán vào Việt Nam theo con đường giao lưu văn hóa bắt đầu từ thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên. Hiện nay, ở Việt Nam còn lưu giữ được số hiện vật như đỉnh cổ có khắc chữ tượng hình (chữ Hán cổ). Ðiều này là một phần chứng minh được rằng chữ Hán cổ xuất hiện ở Việt Nam khá sớm và thực sự trở thành phương tiện ghi chép và truyền thông trong người Việt kể từ những thế kỷ đầu Công nguyên trở đi. Ðến thế ký VII - XI chữ Hán và tiếng Hán được sử dụng ngày càng rộng rãi ở Việt Nam. Thời kỳ này tiếng Hán được sử dụng như một phương tiện giao tiếp, giao lưu kinh tế thương mại với Trung Quốc. Do Việt Nam bị ách đô hộ của phong kiến phương Bắc trong khoảng thời gian hơn một ngàn năm, vì vậy hầu hết các bài văn khắc trên tấm bia đều bằng chữ Hán. Qua đó, chúng ta có thể thấy rằng chữ Hán có ảnh hưởng to lớn như thế nào đối với nền văn hóa của nước Việt Nam xưa. Từ sau thế kỷ thứ X, tuy Việt Nam giành được độc lập tự chủ, thoát khỏi ách thống trị của phong kiến phương Bắc, nhưng chữ Hán và tiếng Hán vẫn tiếp tục là một phương tiện quan trọng để phát triển văn hóa dân tộc.
Chữ Nôm:

Dù chữ Hán có sức sống mạnh mẽ đến đâu chăng nữa, một văn tự ngoại lai không thể nào đáp ứng, thậm chí bất lực trước đòi hỏi, yêu cầu của việc trực tiếp ghi chép hoặc diễn đạt lời ăn tiếng nói cùng tâm tư, suy nghĩ và tình cảm của bản thân người Việt. Chính vì vậy chữ Nôm đã ra đời để bù đắp vào chỗ mà chữ Hán không đáp ứng nổi.

Chữ Nôm là một loại văn tự xây dựng trên cơ sở đường nét, thành tố và phương thức cấu tạo của chữ Hán để ghi chép từ Việt và tiếng Việt. Quá trình hình thành chữ Nôm có thể chia thành hai giai đoạn:

Giai đoạn đầu, tạm gọi là giai đoạn "đồng hóa chữ Hán", tức là dùng chữ Hán để phiên âm các từ Việt thường là tên người, tên vật, tên đất, cây cỏ chim muông, đồ vật... xuất hiện lẻ tẻ trong văn bản Hán. Những từ chữ Nôm này xuất hiện vào thế kỷ đầu sau Công nguyên (đặc biệt rõ nét nhất vào thế kỷ thứ VI).

Giai đoạn sau: Ở giai đoạn này, bên cạnh việc tiếp tục dùng chữ Hán để phiên âm từ tiếng Việt, đã xuất hiện những chữ Nôm tự tạo theo một số nguyên tắc nhất định. Loại chữ Nôm tự tạo này, sau phát triển theo hướng ghi âm, nhằm ghi chép ngày một sát hơn, đúng hơn với tiếng Việt.

Từ thời Lý thế kỷ thứ XI đến đời Trần thế kỷ XIV thì hệ thống chữ Nôm mới thực sự hoàn chỉnh. Theo sử sách đến nay còn ghi lại được một số tác phẩm đã được viết bằngchữ Nôm như đời Trần có cuốn Thiền Tông Bản Hạnh.

Ðến thế kỷ XVIII - XIX chữ Nôm đã phát triển tới mức cao, át cả địa vị chữ Hán. Các tác phẩm như Hịch Tây Sơn, Khoa thi hương dưới thời Quang Trung (1789) đã có bài thi làm bằng chữ Nôm. Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng được viết bằng chữ Nôm là những ví dụ.

Như vậy, có thể thấy chữ Hán và chữ Nôm có những khác nhau cơ bản về lịch sử ra đời, mục đích sử dụng và mỗi chữ có bản sắc riêng về văn hóa.
Chữ Quốc Ngữ hiện nay:
Alexandre de RHODES Pigneau de Behaine (1741-1799)

Ông Alexandre de RHODES viết quyển Từ điển Portugais-Latin-Vietnamien và tham dự việc chuyển sang mẫu tự alphabet La Mã.

Việc chế tác chữ Quốc Ngữ là một công việc tập thể của nhiều linh mục dòng tên người châu Âu, trong đó nổi bật lên vai trò của Francesco de Pina, Gaspar d'Amaral, Antonio Barbosa và Alexandre de RHODES (Avignon, 1591 - Perse, 1660 )

Trong công việc này có sự hợp tác tích cực và hiệu quả của nhiều người Việt Nam, trước hết là các thầy giảng Việt Nam (giúp việc cho các linh mục người Âu). Alexandre De Rhodes đã có công lớn trong việc góp phần sửa sang và hoàn chỉnh bộ chữ Quốc Ngữ. Ðặc biệt là ông đã dùng bộ chữ ấy để biên soạn và tổ chức in ấn lần đầu tiên cuốn từ điển Việt Nam - Bồ Ðào Nha - La Tinh (trong đó có phần về ngữ pháp tiếng Việt) và cuốn Phép giảng tám ngày.

Xét về góc độ ngôn ngữ thì cuốn diễn giảng vắn tắt về tiếng An Nam hay tiếng đàng ngoài (in chung trong từ điển) có thể được xem như công trình đầu tiên khảo cứu về ngữ pháp. Còn cuốn Phép giảng tám ngày có thể được coi như tác phẩm văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Quốc Ngữ, sử dụng lời văn tiếng nói bình dân hàng ngày của người Việt Nam thế kỷ XVII.

Tuy chữ Quốc ngữ của Alexandre De Rhodes năm 1651 trong cuốn từ điển Việt Nam - Bồ Ðào Nha - La Tinh đã khá hoàn chỉnh nhưng cũng phải chờ đến từ điển Việt Nam - Bồ Ðào Nha - La Tinh (1772), tức là 121 năm sau, với những cải cách quan trọng của Pigneau de Behaine ( Bá Ða Lộc) thì chữ Quốc ngữ mới có diện mạo giống như hệ thống chữ Việt mà chúng ta đang dùng hiện nay. 

Hành trình của chữ viết Việt NamPhạm Ðức Dương

Tiếng Việt Mường như nhiều người đã biết, được hình thành cách đây gần 3000 năm do kết quả của quá trình cộng cư giữa người Môn-khmer với người Tày cổ, hình thành một cộng đồng dân cư mới ở tam giác châu thổ sông Hồng, sông Mã.
Ngôn ngữ Việt - Mường chung gồm hai phương ngữ chính là tiếng kẽ chợ ở đồng bằng và tiếng miền ngược ở trung du miền núi. Khi nhà Hán đặt ách thống trị ở Giao Chỉ (đồng bằng Bắc bộ) vào năm 111 sau Công Nguyên, cư dân ở đồng bằng đã tiếp xúc với văn hóa Hán thông qua bộ máy cai trị của các quan thái thú. Với chính sách đồng hóa và nô dịch, họ đã mở trường học chữ nho, bắt người Việt sống theo điển chế Trung Hoa... do ảnh hưởng của 1000 năm đô hộ của người Trung Hoa mà tiếng kẻ chợ đã trở thành tiếng Việt và tiếng miền ngược trở thành tiếng Mường ngày nay.

Đến thế kỷ thứ 10, khi người Việt giành được độc lập và dựng nên quốc gia Đại Việt, tiếng Việt trở thành tiếng phổ thông và tách khỏi tiếng Mường.

Suốt mười thế kỷ độc lập, các triều đại quân chủ Việt Nam tự nguyện tiếp nhận mô hình văn hóa Hán một cách chủ động và thống nhất trong cả nước. Chữ Hán được dùng làm quốc tự trong triều đình, trong thi cử, trong văn chương bác học. Đó là thứ chữ của giai tầng thống trị được suy tôn trọng vọng và là chữ chính thống. Song song với nó, tiếng Việt tồn tại trong quảng đại quần chúng và là quốc ngữ. Do đó dẫn đến một nghịch lý: quốc tự của triều đình không phải để ghi quốc ngữ. Vì vậy người Việt phải mượn ký tự chữ Hán để ghi tiếng Việt, đánh dấu sự ra đời của chữ nôm. Đó là điều đáng ngạc nhiên vì khi đó các nước láng giềng của ta như Lào, Cam-pu-chia, Thái lan... đều mượn chữ ấn Độ để sáng tạo nên chữ viết của họ. Do vậy quốc tự và quốc ngữ của họ là một và được dùng đến bây giờ.

Vì chữ nôm để ghi tiếng Việt nên người Việt dùng để sáng tác thơ ca theo tiếng mẹ đẻ của mình. Còn chữ Hán được dùng để sáng tác thơ kiểu Trung Quốc (thơ Đường...), và đặc biệt để viết văn xuôi (Hoàng Lê Nhất thống trí, Truyền kỳ Mạn lục, Lĩnh nam Trích quái...). Thế kỷ thứ 17 - 18 được đánh dấu bởi sự bùng nổ của văn chương chữ nôm với các tác phẩm truyện, thơ, ngụ ngôn nổi tiếng như (Kiều của Nguyễn Du, bản dịch Chinh Phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm, thơ Hồ Xuân Hương...).

Tiếng Việt thời đó hình thành hai lớp từ mượn Hán: lớp Việt hóa hoàn toàn: ví dụ: tiền, hàng, chợ, mùa... Và lớp Hán Việt là những từ mượn Hán và chưa Việt hóa triệt để: chẳng hạn ta có từ núi nên không thể nói "tôi lên sơn" nhưng ta lại nói "có cô sơn nữ ở vùng sơn cước hát bài sơn ca trong một sơn trại..." Chữ nôm do vậy chưa bao giờ được thống nhất về cách ghi, mỗi người có thể ghi khác nhau. Điều đó lý giải tại sao cùng một tác phẩm chữ nôm lại có nhiều cách "luận" và hiểu khác nhau.

Đến thế kỷ 17, với mục đích du nhập Thiên Chúa giáo vào Việt Nam, các giáo sĩ người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha được sự giúp đỡ của các giáo sĩ người Việt đã La tinh hóa chữ viết để truyền giáo (thường chữ viết gắn liền với tôn giáo), đồng thời tách người Việt ra khỏi khuôn viên của chữ vuông và văn hóa Khổng giáo.

Quá trình xây dựng chữ viết trên cơ sở chữ La tinh mà ngày nay gọi là chữ quốc ngữ đã lặp lại quy trình sáng tác chữ nôm. Alexandre de Rhodes (Bá Đa Lộc) và các giáo sĩ người Âu phải giải quyết hai vấn đề: một là thêm những dấu phụ để phù hợp với cách đọc của người Việt khác với tiếng La tinh, tiếng Bồ Đào Nha..., hai là (khác với chữ nôm) phải ghi riêng biệt từng tiếng khác với cách viết liền như tiếng châu Âu đa tiết.

Quá trình này được phản ánh qua ba cuốn từ điển:

An Nam - Bồ Đào Nha (Gaspar de Amaral);

Bồ Đào Nha - An Nam (Antoine de Barbosa) và

An Nam - Bồ Đào Nha - La tinh (A. de Rhodes - 1651).

Vì tôn trọng cách phát âm của người bản ngữ nên A. de Rhodes đã ghi các âm "ph" thay cho "f", "tl" thay cho "tr", ngaoc (ngọc), thaoc (thóc), bvua (vua); bvui (vui)...

Chính vì địa vị không chính thức và tính không chuẩn hóa của chữ nôm mà chữ quốc ngữ dễ dàng thay thế. Hơn nữa hệ chữ La tinh lại rất dễ đọc và tiện lợi. Vì vậy, lúc đầu các cụ đồ Nho đã hết sức sỉ vả, coi nó là thứ chữ con giun, con dế của đế quốc. Sau này khi thấy nó tiện lợi, học nhanh, dễ chuyển tải các nội dung yêu nước thì chính các cụ Đông kinh Nghĩa thục trong khi chống "cựu học", cổ vũ "tân học" đã phát động việc truyền bá chữ quốc ngữ và văn minh châu Âu"Mở tân giới xoay nghề tân học

Đón tân trào, dựng cuộc tân dân Tân thư, tân báo, tân văn..."(Nguyễn Quyền, giáo học Đông kinh Nghĩa thục)Chính từ công cụ chữ viết quan trọng này, việc tiếp xúc văn hóa Đông - Tây nửa đầu thế kỷ 20 diễn ra sôi động.

Trong bối cảnh quốc tế hóa hiện nay, tiếng Việt được đánh giá như một trong những nhân tố quan trọng, đóng vai trò tích cực vào quá trình hội nhập của Việt Nam với thế giới.