Điệu Tango là sự hòa quyện, chìm đắm trong say mê của đôi tình nhân với những nhịp nhanh chậm đan xen. Không đơn thuần chỉ là một điệu nhảy, nó như tâm trạng, triết lý, nghệ thuật sống và hơn hết đó là sự huyền thoại ....
Vũ điệu Tango - điệu nhảy chất chứa đầy tâm trạng ấy đã xuất hiện lần đầu ở khu vực toàn những con người nghèo khó nhất của Thủ đô Buenos Aires, Argentine. Cho mãi đến ngày nay, người ta vẫn cảm thấy ngỡ ngàng khi biết rằng tác giả của điệu nhảy "không bao giờ chán" ấy lại chính là những người "chân lấm tay bùn"! Đó chính là tâm trạng của con người. Từ đây, sự hòa hợp các nền văn hóa đã nảy sinh với những quý bà trong các bộ áo dài dạ hội lấp lánh và những quý ông trong các bộ áo đuôi tôm.
Những nét đặc trưng của điệu Tango: Nhịp phách: 2/4 và 4/4, phách 1 được nhấn mạnh, phách 3 nhẹ hơn, vào ở phách 1 (với nhạc 4/4). Tốc độ: 32 - 33 nhịp/phút, tức là 128 - 132 phách/phút. Cách đếm: Kết hợp giữa S, Q và & (trong đó, S là 2 phách, Q là 1 phách, & là nửa phách)…
Vũ điệu Tango chào đời ở Buenos Aires, thủ đô Argentine vào cuối thế kỷ thứ XIX, bên bờ Rio de la Plata trong khu vực lân cận của thủ đô Argentina - La Plata , tiếng Tây Ban Nha, (sông Bạc) là biên giới giữa hai nước Argentina và Uruguay. Hai cảng chính trên sông là Buenos Aires ở nam ngạn và Montevideo bên bắc ngạn. Nơi đây thành phần xã hội trong thời gian này là những người di dân nghèo nàn, đa số là đàn ông, sống trộn lẫn với đĩ điếm , trộm cắp... trong các khu ổ chuột gọi là «Arrabal» hoặc trong các dãy nhà lớn như doanh trại (conventillos). Những di dân này từ các nước châu Âu tới... và họ nghe , nhảy theo các điệu Habaneras (điệu nhẩy của những người Cuba) , Polkas - điệu múa của những người gốc vùng Bohême (hiện nay là nước Cộng hoà Tchèque) , Mazurkas (điệu múa gốc Ba Lan) , Waltz (gốc Đức), Flamenco (Tây Ban Nha), Milonga (đến từ vùng Pampas Argentina) .. . Cùng lúc đó người da đen, với khoảng 25% dân số của thủ đô Buenos Aires , những người này nhảy theo nhịp điệu Candombe , một loại âm nhạc được phát triển ở nước Uruguay mà nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc cho rằng nguồn gốc bắt nguồn từ Phi châu. Nói chung lại một cách không quá đáng thì mỗi quốc tịch đã mang tới Buenos Aires lối sống của mình cùng các truyền thống âm nhạc để góp phần trong Tango.
Những dấu ấn
Mặc dù các nhà nghiên cứu lịch sử âm nhạc đã tranh cãi nhiều về nguồn gốc xác thực của Tango, nhưng nhìn chung, người ta thừa nhận điệu nhảy này đã được vay mượn từ nhiều nước - những giai điệu của những nô lệ châu Phi gõ trên trống; điệu milonga của những cánh đồng hoang Nam Mỹ được kết hợp giữa những giai điệu Ấn Độ và điệu nhạc của những người Tây Ban Nha đi khai hoang, ngoài ra, còn có những ảnh hưởng khác trong đó có Latin. Một số người cho rằng từ “Tango” xuất phát từ tiếng Latin ”tangere” (có nghĩa là kề sát nhau). Tuy nhiên, thời gian đầu, Tango luôn bị tầng lớp những người da trắng ở châu Mỹ bài xích và coi đó là "không lành mạnh". Mãi đến năm 1880, một nhạc sĩ người Uruguay chính thức sáng tác bản nhạc đầu tiên cho vũ điệu Tango thì sức mạnh của nó mới thực sự bùng cháy, khiến hàng triệu con tim rung động và say mê.
Những năm cuối thế kỷ 19, Tango Argentine chịu nhiều ảnh hưởng của các điệu nhảy châu Âu du nhập bởi làn sóng di cư từ châu Âu, châu Mỹ. Người Tây Ban Nha, người Italya, người Bồ Đào Nha... đều góp tay đi tìm cái mới, cái lạ ở vùng đất mới. Họ muốn hòa mình vào điệu nhảy giàu cảm xúc và rất mạnh mẽ của người dân bản xứ... Nó trở thành mode thịnh hành của Pháp và sau đó một thời gian ngắn là ở Anh, rồi Mỹ. Mỗi nước lại thay đổi nó theo cách của mình. Một nhạc sĩ Mỹ là Astor Piazzola đã mang những yếu tố của nhạc jazz vào trong Tango.
Tango châu Mỹ chưa tồn tại cho tới tận những năm 1913 - 1919, lúc đó Tango được du nhập từ Pháp, nhưng chủ yếu là qua Anh. Nhịp điệu “ bump bump ba - bump bump” được mở đầu với các bộ váy dài kiểu “bumpers” của các quý bà để tránh không quá chạm sát với những bạn nhảy của mình. Loại nhạc này nhanh chóng trở nên phổ biến ở Ý và trở thành quốc nhạc ở Phần Lan. Nhà soạn nhạc Kurt Weill cũng đã viết một số tác phẩm, trong đó nổi tiếng nhất là “Der Matrosensagen” (Bài hát của người thuỷ thủ). Những người Anglos thì đơn giản hóa điệu nhảy. Các thầy giáo người Mỹ dạy điệu foxtrot nhưng lại gọi đó là Tango.
Năm 1918, viết lời cho nhạc Tango có xu hướng phát triển mạnh và từ đó xuất hiện một ngôi sao mà giờ đây vẫn còn nổi danh 5 thập kỷ sau khi ông mất - ca sĩ Carlos Gardel. Hồi ức về lối trình diễn đầy lôi cuốn của ca sĩ điển trai này để lại trong lòng người Argentina sự sùng bái, không giống như những gì mà Elvis Presley đã có được ở Mỹ.
Năm 1930, một cuộc đảo chính quân sự ở Argentina đã đặt dấu chấm hết cho quyền bầu cử của công dân và do đó đã làm câm lặng tiếng nói của mọi người - Tango. Trong thời gian này một ca sĩ nhạc Tango đồng thời cũng là một nhà triết học đã nổi lên - Enrique Santos Discepolo. Ông nổi tiếng với câu nói “Thế kỷ 20 là một đống tro tàn mà không ai có thể phủ nhận…” Tango sống trở lại vào cuối những năm 1930 khi nhân dân Argentina đoạt lại quyền tự do chính trị của mình. Họ kỷ niệm việc thăng tiến địa vị xã hội bằng Tango và điều này trở thành một biểu tượng cho tình đoàn kết và là một phần cuộc sống hàng ngày của họ. Những nhạc sĩ Tango nổi tiếng đi theo những xu hướng mới như Fresedo, De Caro, Pugliese và Anibal Troilo.
Không bao lâu sau, giới trí thức phong lưu giờ đây đã trở nên khác biệt hẳn so với tầng lớp lao động bắt đầu viết lời cho Tango. Vì những ảnh hưởng của họ, Tango trở nên lãng mạn hơn, hoài cổ hơn và là một ký ức ngọt ngào về tuổi thanh xuân trong một xã hội bình dị không bao giờ tồn tại. Khi Juan Peron nắm quyền năm 1946, Tango lại trở nên cực thịnh ở Argentina vì cả ông và phu nhân Evita đều hết lòng ủng hộ loại nhạc này. Nhưng sau cái chết của bà năm 1952, Tango lại rơi ra khỏi địa vị thống trị của nó. Với sự xâm chiếm của nhạc Rock&Roll Mỹ, Tango lại lỡ bước với thời gian…
Âm ỉ, nhen nhúm, rồi bập bùng ngây ngất, tiết tấu độc đáo của Tango, vào thế kỷ 20 từ Buenos Aires đã chinh phục khắp thế giới. Cho dù từng trải bao thăng trầm trong suốt hơn một trăm năm lịch sử, giống như cuộc đời của chủ nhân nó, Tango vẫn phát triển và tỏa lan khắp hành tinh. Phải chăng, sức quyến rũ và cảm hóa của Tango khiến người ta không dễ gì cưỡng lại? Người Argentine gửi gắm cả hồn mình vào nhịp bước của Tango như thể nó là người bạn tri kỷ vậy!
Trong thời kỳ phục hưng, không nhiều những gương mặt nổi bật - Điều kỳ lạ là thời đó không hề hoặc rất ít phụ nữ dạy Tango và phụ nữ chỉ đi nhảy thôi chứ chưa có định nghĩa “sao”. Thời kỳ mà chỉ nam giới mới được tôn vinh, còn phụ nữ, dù có “vượt” nam giới, nhưng cũng chỉ được xếp “hàng thứ”…
Những “phụ nữ nhảy Tango” đó làm thế nào để điệu nhảy của họ “được công nhận”. Dưới đây là một trong những phụ nữ điển hình đã làm được điều tưởng chừng không thể đó…
Graciela Gonzalez - “Nữ chiến binh điển hình của Tango”
Sắc nét, đơn giản, mạnh mẽ nhưng vẫn vô cùng tinh tế và duyên dáng là những bước Tango chắc nịch mà đầy nữ tính của Graciela Gonzalez. Graciela là một trong những phụ nữ tiên phong trong việc có "tiếng nói riêng" của mình ở điệu nhảy Tango.
Bố mẹ Graciela (đã qua đời) đều là những người sống trong “kỷ nguyên vàng của điệu Tango” và vì thế, họ là những nghệ sĩ nhảy Tango một thời, song Graciela lại chẳng học nhiều được từ họ... Theo Graciela, khi họ còn trẻ, loại nhạc duy nhất họ nghe được qua đài phát thanh là Tango, thời đó nhạc Tango và Jazz đang rất thịnh. Và điệu nhảy này đã giúp họ có nhau...
Bắt đầu học Tango từ năm 1988 tại một cung văn hóa gần nhà do nhóm của Gustavo Naviera hướng dẫn. Ngay ngày học đầu tiên, Graciela đã nhảy liên tục 4 tiếng đồng hồ và kể từ đó, Graciela chưa bao giờ ngừng nghỉ. Ngoài Gustavo Naviera, những nghệ sĩ Tango nổi tiếng khác thời đó như: Pupi Castello, Pepito Avellaneda, Antonio Todaro... (riêng Gustavo, ông là một trong những nghệ sĩ trẻ thời bấy giờ và dám làm những điều khác biệt!).
Graciela “vào đôi” với Pupi Castello lần đầu tiên vào năm 1998 tại một buổi tập và họ đã cùng nhau đi thi, sau đó đã đoạt giải nhất và rồi cặp đôi này được xem là những hạt mầm của Tango thế hệ mới…
Nếu nói về vai trò của nữ trong điệu Tango, Graciela xứng đáng được xem là người phụ nữ tiên phong. Không phải bởi bà nhảy rất đẹp mà còn là người soạn ra khóa học đầu tiên về kỹ thuật cho nữ với toàn các giảng viên nữ như Martha Anton, Veronica Alvarenga và dạy tại La Galeria of Tango. Đến năm 1994, lớp kỹ thuật cho nữ đầu tiên được khởi xướng.
Với bà, phong cách và cũng là điểm nhấn của mình đó là một “đôi chân tốt”. và điệu nhảy như thế nào là tuyệt hảo cũng được bà đề cập đến - đó không chỉ là một điệu nhảy mà bà xem đây như một cuộc du ngoạn, xem như không có gì liên quan đến hình dáng của điệu nhảy cả… chỉ là đi bộ với nhiều tổ hợp bước và phụ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh… Sự kết hợp là điều quan trọng nhất. Nếu không kết hợp được thì cũng chẳng có “cuộc du ngoạn” nào…
Nguồn Gốc của Tango
Nguyên thủy của điệu vũ Tango dường như được tìm thấy trong điệu nhẩy của người Cuba-Tây Ban Nha, truyền đạt trong quá trình liên lạc thương mãi thường xuyên giữa các hải cảng Havana ở Cuba và hải cảng ở Buenos Aires, Argentina.
Ban đầu, Tango được thể hiện bởi các nhóm nhỏ trong đó các nhạc sĩ chơi violon, sáo, đàn guitar và đôi khi sử dụng một chiếc lược được phủ giấy vấn thuốc lá thay cho nhạc cụ gió.
Nhạc cụ thần thoại, đàn kéo bandoneon, nguồn gốc ở Đức xuất hiện một vài năm sau đó, vào năm 1900, dần dần thay thế cho cây sáo.
Nhạc cụ thần thoại, đàn kéo bandoneon, nguồn gốc ở Đức xuất hiện một vài năm sau đó, vào năm 1900, dần dần thay thế cho cây sáo.
Hình như những âm thanh khác nhau của các nhạc cụ được tạo ra bởi những người tuy khác nguồn gốc, chủng tộc , màu da ... nhưng cùng có chung những hoài niệm một thời đã qua trong quá khứ và thậm chí cả những nỗi thống khổ của một tương lai không có gì là chắc chắn : Tango ra đời .
Trong thời kỳ đầu tiên, Vũ điệu Tango chỉ đơn thuần phô diễn những giai điệu đã có hoặc thêm thắt vào một số biến thể không bao giờ được ghi chép bởi lẽ đa số những người diễn tấu vừa không biết đọc lại vừa không biết viết âm nhạc.
Một vài năm sau đó , các bản Tangos đầu tiên đã được viết ra nhưng lại không mang chữ ký của một tác giả nào tuy nhiên những người trình diễn bấy giờ đã biết viết những bản dàn bè và họ lợi dụng sự phổ biến của một số tác phẩm "vô danh" nổi tiếng và ký tên lên đó để hưởng một chút lợi nhuận.
Danh Từ "Tango"
Người ta có thể tự đặt một câu hỏi về nguồn gốc của chính cái tên Tango . Câu trả lời sẽ rất khó khăn bởi vì mỗi người sẽ trả lời theo cách giải thích của chính họ. Trong thế kỷ thứ XIX ở Tây Ban Nha chữ Tango là để chỉ một cây gậy. Chữ này cũng hiện diện trong ngôn ngữ của một số nước Phi châu, chữ Tango cũng đã được ghi chép trong một số tài liệu Tây Ban Nha để nói lên nơi mà những người nô lệ da đen tụ họp tổ chức lễ hội. Một số người khác lại cho rằng chữ "Tango" do từ chữ "Tambor" tiếng Tây Ban Nha , cái trống , mà những người nô lệ da đen không tài nào phát âm cho đúng nên đã bị chuyển thành "Tango".
Từ Những Khu Ổ Chuột đầy Tiếng Xấu ...
Người ta khởi sự nhảy vũ điệu Tango ở ngoài đường phố (bị cấm bằng một sắc luật vào ngày 03 tháng 2 năm 1916 vì cản trở giao thông), trong các quán trà rượu và nhà thổ ở khu ổ chuột , do đó những điệu nhảy mới nhanh chóng liên kếtvới bầu không khí của những nhà chứa gái điếm vì những gái điếm và những người đàn bà dọn dẹp phòng ở đây là nữ giới duy nhất có mặt trong các buổi tụ họp ăn chơi giải trí này . Cái thế giới "đực rựa" bình dân, "đao to búa lớn", du côn ... đó đã tự nhiên dẫn tới những trường hợp mà những người đàn ông phải nhảy với nhau.
Thêm nữa, Tango được nhảy trong một cách rất là "vật chất", khiêu khích, rõ rệt ; và là một điệu vũ rất xa biệt với những thuần phong mỹ tục của giới trưởng giả ở Buenos Aires.
Dần dần theo thời gian , các ca khúc cũng xuất hiện để đệm theo điệu vũ. Tuy nhiên đa số lời của những ca khúc này lại rất trắng trợn tục tiễu và tựa đề của những ca khúc lại ẩn hiện mập mờ một sự tục tiễu nào đó như : "Con qué tropieza que no dentra", "Dos sin sacarla", "Siete pulgadas", "Qué polvo con tanto viento"... Chúng tôi xin dành sự phiên dịch này cho những người am hiểu về ngôn từ Tây Ban Nha hơn tuy nhiên để có thể có một chút về sự trắng trợn này người ta có thể tìm thấy trong một nhạc bản rất nổi tiếng: "El Choclo" , theo nghĩa văn chương là "bông bắp" nhưng phải hiểu theo sự tưởng tượng thật ẩn ý.
Trước khi xuất hiện trong các vũ trường lớn tại thế giới phương Tây, Tango được lưu truyền từ Argentine nơi chào đời bình dân của nó tới Paris, kinh đô ánh sáng , thủ đô của nước Pháp. Tại đây Tango đã bước lên tước vị một trong những vũ điệu quý tộc.
Nhưng làm thế nào để Tango đạt tới đỉnh cao như vậy ? Câu trả lời qủa thực vẫn còn rất khó khăn . Giới trẻ của xã hội thượng lưu ở Buenos Aires khác hẳn cha mẹ họ, họ đã dám tới những vùng bình dân ở lân cận thành phố để vui chơi, nhẩy múa; tán tỉnh một cô gái tại đây, một Milonguita (*), cũng đang chờ đợi điều này. Và để sáp lại với cô gái chưa quen biết này, chẳng có thứ gì khác hơn là Tango. Lẽ dĩ nhiên vào lúc đó thì những cô gái xuất thân từ những gia đình trưởng giả ở thủ đô Á Căn Đình vẫn chưa "thực hành" vũ điệu Tango vì vậy Tango vẫn độc quyền trong các khu bình dân ở Buenos Aires .
Paris thủ đô Ánh sáng và là tủ kính trưng bầy của Âu châu, của thời trang, chiếc nôi của những gì sang trọng. Tại Paris các ban nhạc nổi tiếng nhất đã trình tấu nhạc Tango trong các phòng trà cabarets, trong những điểm ăn chơi trứ danh gợi nhiều sự tưởng tượng của Paris như Folies Bergères, Montmartre hay Le Petit Parisien nơi đây tầng lớp trung lưu có thể tới ăn tối và thực hành vũ điệu Tango trong một khuôn khổ phù hợp với giới này hơn.
và một viện Tango đã được thiết lập tại Rue de la Faisanderie - Paris. Vũ điệu Tango nhờ thế đã lan tràn thực nhanh chóng khắp các thủ đô của các nước Âu châu và giới thượng lưu Argentine khởi sự quan tâm tới Tango.
và một viện Tango đã được thiết lập tại Rue de la Faisanderie - Paris. Vũ điệu Tango nhờ thế đã lan tràn thực nhanh chóng khắp các thủ đô của các nước Âu châu và giới thượng lưu Argentine khởi sự quan tâm tới Tango.
Sau khi đạt thành công ở Âu châu, Tango quay lại Buenos Aires, lẽ tất nhiên trong thế giới thượng lưu vừa thoát khỏi ách thống trị của người Tây Ban Nha với ước vọng muốn biến Buenos Aires trở thành một thủ đô Paris thứ hai ở Mỹ châu.
Không giống như Paris nơi mà các vũ công năm hoặc nữ đến tham dự duy nhất xuất thân từ tầng lớp trung lưu hoặc trưởng giả , các quán rượu ở Buenos Aires tập trung những khách đàn ông của giới trung hoặc thượng lưu trong lúc đó thì các vũ nữ đa số là những cô gái nghèo khó nhưng tài năng của họ đã biến họ thành những ""bà hoàng" ở các quán tiệm này - đây chính là những huyền thoại của "Milonguita (*)" , cô gái nhà nghèo được người ta trả tiền để nhẩy và được bao cho uống rượu sâm banh thả dàn, khoác áo lông thú và đeo đầy đồ trang sức , cô gái hy vọng sẽ tìm được một người đàn ông giàu có, người sẽ mang cô ta vĩnh viễn rời khỏi một trong những 2 462 "conventillos" mà cô đang phải sống ở đó. Người ta kể lại rằng những cô gái con nhà khá giả muốn tới những nơi này phải có sự hộ tống của các bà mẹ
Không giống như Paris nơi mà các vũ công năm hoặc nữ đến tham dự duy nhất xuất thân từ tầng lớp trung lưu hoặc trưởng giả , các quán rượu ở Buenos Aires tập trung những khách đàn ông của giới trung hoặc thượng lưu trong lúc đó thì các vũ nữ đa số là những cô gái nghèo khó nhưng tài năng của họ đã biến họ thành những ""bà hoàng" ở các quán tiệm này - đây chính là những huyền thoại của "Milonguita (*)" , cô gái nhà nghèo được người ta trả tiền để nhẩy và được bao cho uống rượu sâm banh thả dàn, khoác áo lông thú và đeo đầy đồ trang sức , cô gái hy vọng sẽ tìm được một người đàn ông giàu có, người sẽ mang cô ta vĩnh viễn rời khỏi một trong những 2 462 "conventillos" mà cô đang phải sống ở đó. Người ta kể lại rằng những cô gái con nhà khá giả muốn tới những nơi này phải có sự hộ tống của các bà mẹ
Tuy nhiên sự vinh quang của Tango cũng bị hoen ố vì sự bài bác của một tầng lớp những người chặt chẽ về nguyên tắc đạo đức. Những người phê phán, kiểm duyệt xuất hiện ở nhiều nơi. Ngay cả Giáo hoàng ở Vatican Pie X ,trước khi qua đời năm 1914, cũng ra lệnh ngăn cấm . Tiếp đó là Hoàng đế Đức và giới cao cấp trong triều đình. Tạp chí Tây Ban Nha "La Ilustración Europea y Americana" phán xét rằng vũ điệu Tango không chỉnh tề, qúa sỗ sàng với những điệu bộ lố bịch ghê tởm, vì vậy tất cả những người đứng đắn không thể để bị lôi cuốn bởi loại vũ điệu này được. .
Phán xét này được báo giới ở Anh quốc đồng loạt tán thành rồi tới lượt báo giới Đức và ngay cả Pháp . Mặc dù vậy, vũ điệu Tango vẫn chiến thắng cho dù hơi chậm : Giáo hoàng Benoît XV phục hồi danh dự cho Tango.
Xuất hiện những chiếc váy dành cho Tango, màu sắc của Tango, trà của Tango...và Tango là vũ điệu vua của các sàn nhảy ...
Thời Kỳ Vàng Son của Tango
Khởi đầu, những nhạc sĩ trong các ban nhạc chỉ gồm có 3 người - sáo, violon và guitare - họ chơi theo hứng của họ . Tiếp đó cây đàn dương cầm thay thế cho chiếc guitare và cây đàn bandonéon thay cho cây sáo. Trong hành lý của một chàng thuỷ thủ gốc Đức nào đó có một cây bandonéon ... cây đàn này đã chiếm ngự vị trí là một nhạc cụ không thể thiếu của Tango.
Theo lời thưật lại thì một người đánh xe ngựa công cộng đã xử dụng tại các khu "conventillos" để kiếm thêm chút tiền .
Năm 1913 những ban nhạc "orquesta tipica" được xuất hiện với 2 cây đàn bandoneons, 2 cây violons, 1 cây đàn bass và 1 cây đàn piano. Năm 1917 xảy ra một sự kiện quan trọng trong đà phát triển của Tango : hát Tango - qua giọng hát lừng danh của nhạc sĩ Carlos Gardel được mệnh danh là "The King of Tango" , người có công truyền bá Tango - Carlos Gardel sinh tại Toulouse Pháp năm 1890 , theo cha mẹ di cư tới Argentine khi mới được 3 tuổi và qua đời năm 1935 trong một tai nạn máy bay tại Colombia .
Tiếp đó là những năm 1920 tới năm 1935 : thời kỳ vàng son của Tango với những ca sĩ thành công khác như : Canaro, d'Arrienzo, Pugliese, Piazzola.
Theo lời thưật lại thì một người đánh xe ngựa công cộng đã xử dụng tại các khu "conventillos" để kiếm thêm chút tiền .
Năm 1913 những ban nhạc "orquesta tipica" được xuất hiện với 2 cây đàn bandoneons, 2 cây violons, 1 cây đàn bass và 1 cây đàn piano. Năm 1917 xảy ra một sự kiện quan trọng trong đà phát triển của Tango : hát Tango - qua giọng hát lừng danh của nhạc sĩ Carlos Gardel được mệnh danh là "The King of Tango" , người có công truyền bá Tango - Carlos Gardel sinh tại Toulouse Pháp năm 1890 , theo cha mẹ di cư tới Argentine khi mới được 3 tuổi và qua đời năm 1935 trong một tai nạn máy bay tại Colombia .
Tiếp đó là những năm 1920 tới năm 1935 : thời kỳ vàng son của Tango với những ca sĩ thành công khác như : Canaro, d'Arrienzo, Pugliese, Piazzola.
No comments:
Post a Comment